Về Cội Nguồn Nho Giáo Với Những Lời Dạy Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Bài Trích nguyên văn của: Tác giả: Lương Duy Thứ
HỒ CHÍ MINH ĐƯỢC ĐÀO LUYỆN TRONG NHO GIÁO VIỆT NAM
TRƯỚC KHI TIẾP XÚC VỚI VĂN HOÁ ÂU TÂY VÀ VĂN HOÁ XÔ VIẾT:
Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn
Ái Quốc (sau 1941 về nước lãnh đạo Cách mạng giải phóng dân tộc mới đổi
tên Hồ Chí Minh) tự giới thiệu: “Tôi xuất thân từ một gia đình nhà
nho, nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng”. Rồi tại Đại hội
Quốc tế cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái Quốc lại ghi trong lý lịch: “Thành
phần gia đình nhà nho”.
Quả vậy, gia đình Hồ Chí Minh là một gia đình Nho học.
Thân sinh, cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng trong kỳ thi Hội năm 1901.
Đương thời, người đỗ đạt có thể làm quan cai trị cả một vùng, nhưng giàu
lòng nhân ái, lại nặng nợ non sông, cụ từ quan đi làm thuốc chữa bệnh
cho dân nghèo và dạy chữ nho. Huyện Nam
Đàn quê hương Hồ Chí Minh, nổi tiếng là nghèo mà ham học. Ở đó ai cũng
biết câu nói: Có chí làm quan, có gan làm giàu. Như vậy làm giàu là một
sự liều lĩnh trái với lương tâm. Làm quan thì phải kiên trì học hành,
dùi mài kinh sử, nghèo mà vinh quang. Cả huyện Nam
Đàn đâu đâu cũng có những người đỗ đạt, nhưng không làm quan hoặc làm
quan mà thanh liêm vì dân. Phan Bội Châu là một ví dụ. Đặng Nguyên Cẩn
thân sinh học giả Đặng Thai Mai ở huyện Thanh Chương kề bên cũng là một
ví dụ.
Vấn đề Hồ Chí Minh với Nho giáo đã được đề cập từ Hội thảo Quốc
tế Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá nhân loại ở
Hà Nội năm 1990. Bản thân tôi cũng có một số báo cáo đã được đưa vào kỷ
yếu: Hồ Chí Minh với văn hoá Trung Quốc – sự gặp gỡ giữa các nhân cách
văn hoá và cá tính sáng tạo (1). Trong báo cáo này tôi nói đến sự gặp gỡ
về nhân cách văn hoá giữa Hồ Chí Minh với Khổng Tử và Tôn Trung
Sơn; sự gặp gỡ về sáng tạo văn chương giữa Hồ Chí Minh với thơ Đường và
Lỗ Tấn.
Từ đó đến nay cũng có nhiều người bàn luận vấn đề này.
Nói cách khác vấn đề không mới. Nhưng riêng tôi thì có sự đổi mới về
cách nhìn. Sự đổi mới này cũng bắt nguồn từ công cuộc Đổi mới hơn chục
năm nay ở Việt Nam
mà cụ thể là đổi mới cách nhìn nhận vấn đề văn hoá và giao lưu văn hoá.
Nói tóm tắt là: Trước đây chúng tôi ra sức chứng minh Hồ Chí Minh chỉ
tiếp thu các thuật ngữ, các mệnh đề Nho giáo nhưng lại phú cho nó
một hàm nghĩa Cách mạng, khác hẳn nội tại vốn có. Nhìn bề ngoài thì đó
là một luận điểm hợp lý, nhưng thực chất là một cách nhìn cực đoan. Nay
qua quá trình nghiên cứu văn hoá Trung Quốc, tiếp xúc với lý thuyết Nho
giáo mới, được sự thúc đẩy của yêu cầu đổi mới mà trước hết là đổi
mới tư duy, tôi khẳng định cội nguồn Nho giáo Việt Nam của những
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân Việt Nam thời nay tiếp
nhận một cách tâm phục.
Để triển khai đề tài, bài viết sẽ gồm 3 phần:
I Văn hoá Việt Nam đã tiếp biến (Acculturation) Nho
giáo Trung Quốc để kết hợp với Nho giáo Đại Việt hình thành
một loại Nho giáo Việt Nam lấy nghĩa làm trọng.
II Hồ Chí Minh được đào luyện trong môi trường Nho
giáo Việt Nam ,
trước khi tiếp nhận văn hoá Âu Mỹ và văn hoá Xô Viết.
III Những lời dạy của Người có cội nguồn Nho giáo
Việt Nam
nên đã khéo léo đưa chân lý cách mạng cao siêu đến với người
dân bình thường bằng cách nói thân thuộc.
I Văn hoá Việt Nam đã tiếp biến (Acculturation) Nho
giáo Trung Quốc để kết hợp với Nho giáo Đại Việt hình thành
một loại Nho giáo Việt Nam lấy nghĩa làm trọng.
Đây là một luận đề lớn, có thể viết thành một cuốn
sách. Vả lại chúng cũng phải chờ đợi những thành tựu mới về phương diện
khảo cổ, về những nghiên cứu văn hiến cổ.
Ở đây xin chỉ nêu vắn tắt quan điểm của tôi, giành số
trang cho phần 2 và 3.
Theo tôi quan điểm sau: Trước khi tiếp xúc với văn
hoá Hán vào đầu Công nguyên, người Việt cổ đã có nền văn hoá của
riêng mình. Nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là nền văn hoá Âu Lạc. Văn
hoá Âu Lạc thuộc loại hình nông nghiệp lúa nước, nguyên người Việt cổ đã
có nền văn hoá của riêng mình. Nhiều nhà nghiên cứu gọi là nền văn hoá
Âu Lạc. Văn hoá Âu Lạc thuộc loại hình nông nghiệp lúa nước, ở nhà sàn,
cấy lúa nước, thờ chim và rắn. Đó là một trong các chi nhánh của loại
hình văn hoá Đông Nam Á.
Một nghìn năm Bắc thuộc và tiếp đó một nghìn năm độc lập
nhưng luôn luôn phải đối phó với quân xâm lược đến từ phương Bắc, văn
hoá Việt cổ đã tiếp biến những giá trị văn hoá Trung Hoa mà nổi bậc nhất
là chữ Hán và Nho giáo để bổ sung và hoàn thiện nền văn
hoá Việt. Về điểm này có thể đọc cuốn Văn hoá và đổi mới của cố vấn
BCHTƯ Đảng CSVN Phạm Văn Đồng, trong đó ông khẳng định: 1000 năm Bắc
thuộc, Việt Nam chủ yếu tiếp biến chữ Hán để làm ra chữ Nôm
và Nho giáo để làm ra Nho giáo Việt Nam.
Có thể chấp nhận quan điểm của giáo cư Nhật Bản Tsuboi
Yoshiharu mà cũng là quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam rằng Nho
giáo Việt Nam lấy chữ Nghĩa làm đầu (trong lúc đó Nho giáo Trung
Quốc lấy chữ Trung làm đầu, Nho giáo Hàn Quốc lấy chữ Thuần làm
đầu (3). Tôi không hiểu Nho giáo ở Nhật Bản, ở Hàn Quốc nhưng tôi
bày tỏ lòng kính trọng đối với giáo sư Tsuboi Yoshiharu vì ông đã thông
cảm với người Việt Nam trong hoàn cảnh khác người Nhật, người Hàn là
luôn luôn bị phương Bắc đe doạ và Nho giáo đến với dân tộc chúng
tôi như một lý thuyết của thể chế cai trị và người Việt Nam đã khôn khéo
tiếp biến nó để chống lại sự xâm lược, tăng thêm nội lực của nền văn
hoá dân tộc. Chính vì được sản sinh trong hoàn cảnh như vậy cho nên
người Việt Nam đề cao chữ “nghĩa”, là một phạm trù đạo đức của Nho
giáo và cả của Mặc gia trong đó nhấn mạnh sự đoàn kết tương thân
tương ái và còn nhấn mạnh cả kỷ cương trong quan hệ giữa cộng đồng và cá
nhân. Chữ nghĩa gồm phần trên là chữ Dương với thuộc tính cộng đồng,
phần dưới là chữ Ngã với thuộc tính cá thể . Như vậy “nghĩa” là một
phạm trù đạo đức xác định sự gắn kết giữa người với người trong yêu cầu
đặt lợi ích cá nhân dưới lợi ích cộng đồng.
Có lẽ cần tham khảo thêm ý kiến của một số người cho
rằng Nho giáo Việt Nam
còn nhấn mạnh thêm chữ Hoà trong mệnh đề: Quân tử giả, hoà nhi bất
đồng (có thể dịch:người quân tử hoà nhập mà không hoà tan).
- Về vấn đề Nho giáo Việt Nam
thuộc cội nguồn Nho giáo nguyên thuỷ (Khổng- Mạnh), Hán Nho hay
Tống Nho? Theo tôi nghĩ phải nhìn từ hai phía. Trong dân gian, nghĩa là
trong đời sống văn hoá bền vững của dân chúng thì ảnh hưởng của Nho
giáo nguyên thuỷ là chủ yếu. Nói cho thật chính xác, nhân dân đã
tiếp biến những tín điều của Khổng Mạnh mà họ thấy thích hợp, gần gũi
với lẽ sống vốn có của họ.
Nhìn tổng quát, đó là cảm hứng trách nhiệm (sens de la
responsabilité); trách nhiệm với cuộc đời, với gia đình, với làng nước
và trách nhiệm với cả suy nghĩ và hành động thầm kín của bản thân. Trên
tinh thần đó họ tiếp thu dễ dàng mệnh đề Tu thân, tề gia, trị quốc.. Có
thể họ không biết chữ lễ của Khổng Tử có hàm nghĩa gì, cũng không
cực đoan đến mức “thịt thái không vuông vắn thì không ăn, chiếu giải
không ngay ngắn thì không ngồi” nhưng họ thấy cần có lễ, cần có tôn ti
trật tự “ăn xem nồi, ngồi xem hướng” … Khổng Tử còn có sự phân
biệt nhân (quân tử) và dân (tiểu dân) và từng nói: Dân chỉ cần bảo họ
làm không cần cho họ biết (làm để làm gì) (Dân khả sử cho chi, bất khả
sử trí chi. Thái Bá) nhưng người dân Việt vốn giàu tinh thần tương thân
ái “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau
cùng” đã tiếp thu chữ Nhân của Khổng Tử với nội hàm trung (Kỷ sở
lập, lập ư nhân – Điều mình không muốn thì cũng tránh cho người khác).
(Trung dung. Lễ Ký) Tương tự như thế, họ tiếp thu tư tưởng dân bản của
Mạnh Tử, nhưng cũng chủ yếu tiếp thu mệnh đề: Dân vi quý, quân vi khinh…
và tư tưởng đó được thể hiện rõ qua câu ca dao cổ: Con vua thì lại làm
vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Bao giờ dân nổi cơn qua, con vua
thất thế thì ra quét chùa. Tư tưởng này cũng được nhà văn hoá lớn Nguyễn
Trãi (thế kỷ 15) nhắc lại trong lời khuyên: Dân như nước, vua như
thuyền; nước dâng thuyền cũng có thể lật thuyền.
Nói vắn tắt, đại đa số nhân dân lớp dưới đã tiếp thu
những mệnh đề về lòng nhân ái vị tha và tinh thần trách nhiệm với xã tắc
cũng như ý thức tự cường của Nho giáo nguyên thuỷ vốn rất gần
gũi với nhân sinh quan và đạo đức quan của người Việt cổ. Sự tiếp thu
này không phải thông qua sách vở hay trường học mà chủ yếu thông qua các
ông đồ nho ở làng quê.
Trở lên trên là nhìn cội nguồn Nho giáo Việt Nam
từ phía đại chúng nhân dân. Nhìn từ phía thứ 2, tức là tầng lớp nho sĩ
được hưởng một nền giáo dục chính quy có địa vị cao trong xã hội vấn đề
cũng không đơn giản. Tuỳ thời đại, tuỳ thị hiếu các triều đại, tuỳ mối
quan hệ giao lưu nóng lạnh khác nhau với các vương triều Trung Quốc mà Nho
giáo Việt Nam ở các thời kỳ có cội nguồn khác nhau.
Nho giáo Trung Quốc truyền vào Việt Nam
từ đầu công nguyên trải qua các triều đại Lý, Trần càng ngày càng có
ảnh hưởng sâu sắc. Nhưng thế kỷ XV về sau, vào các triều Hậu Lê và
Nguyễn mới hình thành một đội ngũ đông đảo các văn nhân học sĩ giải
thích, bàn luận về Nho giáo. Có thể thấy khuynh hướng chung là có
cội nguồn Tống Nho nhưng cũng có cả Hán Nho, Đường Nho.
Chúng ta đều biết đời Hán có số lượng nhà nho
nhiều nhất và có khuynh hướng trọng sử, đề cao kinh Xuân thu. Đổng Trọng
Thư là người luận giải Xuân Thu kỹ càng nhất. Ngoài ra còn có Tư Mã
Thiên, Lưu Hướng, Lưu Hâm, Dương Hùng, Vương Sung… Vào thời Lê – Việt
Nam, các học giả Ngô Thì Du (viết 7 trong số 17 hồi của Hoàng Lê Nhất
Thống Chí), Phạm Đình Hổ (tác giả cuốn Tang thương ngẫu lục) rồi Phan
Huy Chú, Cao Bát Quát và sau đó Lý Văn Phức, Nguyễn Văn Siêu đều có xu
hướng trọng Hán Nho, đề cao Xuân Thu học tập Sử Ký.
Chúng ta cũng biết Đường Nho đề cao Tứ Thư đặc biệt là
Luận Ngữ và Mạnh Tử. Những người theo khuynh hướng Đường Nho. Họ đặc
biệt coi trọng Kinh dịch trong Ngũ Kinh và Trung Dung, Đại học trong Tứ
Thư. Có lẽ cái mà người ta thường phê phán Tống Nho là tuyệt đối hoá
vương quyền. Triều Nguyễn với Gia Long (1802-1820), Minh Mạng
(1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883)… đã rập khuôn lý
thuyết triết học và thể chế chính trị Tống Nho. Trong đó chỗ thể hiện
điểm cực đoan của Tống Nho rõ nhất là điều khoản 4 không (Tứ bất) trong
Hoàng triều luật. Đó là thi cử không lấy trạng nguyên (giành chỗ cao
nhất cho vua) triều đình không đặt tể tướng, hậu cung không được sách
phong Hoàng hậu, tước vương không phong cho ngoại tộc.
Triều Nguyễn, văn nhân học sĩ theo phái Tống Nho gồm hai
loại: Loại thứ nhất gồm các bề tôi vào sinh ra tử với chúa Nguyễn như
Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, … hoặc không có công phò
tá khai sơn nhưng có tài, trở thành nhà lý luận đắc lực như Đặng Đức
Siêu, Nguyễn Đăng Tuân, Hoàng Kim Xán. Loại thứ hai gồm những nhà khoa
bảng đương triều được phong tước lộc như Trương Đăng Quế, Hà Duy Phiên,
Phan Thanh Giản, Trần Bích San… Cũng cần kể thêm các vị vua như Minh
Mạng (Nguyễn Phước Hiệu), Thiệu Trị (Nguyễn Phước Miên Tông), Tự Đức
(Nguyễn Phước Thì) và các thân vương như Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương),
Miên Trinh (Tuy Lý Vương)…
Tóm lại, nói đến cội nguồn Nho giáo ở Việt Nam
là đề cập đến một vấn đề không đơn giản chút nào. Theo quan điểm lịch
đại, còn phải kể đến sự đấu tranh dai dẳng hàng mấy chục thế kỷ giữa văn
hoá bản địa và văn hoá ngoại lai, theo quan điểm đồng đại thì sự bùng
nổ từng thời vừa phụ thuộc khuynh hướng các triều đại bản địa vừa phụ
thuộc quan hệ giao lưu của từng triều đại với Trung Quốc. Tuy khuynh
hướng Nho giáo nổi bật ở hai triều hậu Lê và Nguyễn là Tống Nho
nhưng hầu như Nho học Việt Nam thiên về những vấn đề thuộc hình
nhi hạ mà ít bàn luận những vấn đề thuộc hình nhi thượng, bởi vậy chữ
hiếu, chữ nghĩa, chữ hoà ở Việt Nam tuy có gốc gác Nho giáo Trung Hoa
nhưng lại mang sắc thái Việt Nam không lẫn với ai.
II HỒ CHÍ MINH ĐƯỢC ĐÀO LUYỆN TRONG NHO GIÁO VIỆT NAM
TRƯỚC KHI TIẾP XÚC VỚI VĂN HOÁ ÂU TÂY VÀ VĂN HOÁ XÔ VIẾT:
Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn
Ái Quốc (sau 1941 về nước lãnh đạo Cách mạng giải phóng dân tộc mới đổi
tên Hồ Chí Minh) tự giới thiệu: “Tôi xuất thân từ một gia đình nhà
nho, nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng”. Rồi tại Đại hội
Quốc tế cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái Quốc lại ghi trong lý lịch: “Thành
phần gia đình nhà nho”.
Quả vậy, gia đình Hồ Chí Minh là một gia đình Nho học.
Thân sinh, cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng trong kỳ thi Hội năm 1901.
Đương thời, người đỗ đạt có thể làm quan cai trị cả một vùng, nhưng giàu
lòng nhân ái, lại nặng nợ non sông, cụ từ quan đi làm thuốc chữa bệnh
cho dân nghèo và dạy chữ nho. Huyện Nam
Đàn quê hương Hồ Chí Minh, nổi tiếng là nghèo mà ham học. Ở đó ai cũng
biết câu nói: Có chí làm quan, có gan làm giàu. Như vậy làm giàu là một
sự liều lĩnh trái với lương tâm. Làm quan thì phải kiên trì học hành,
dùi mài kinh sử, nghèo mà vinh quang. Cả huyện Nam
Đàn đâu đâu cũng có những người đỗ đạt, nhưng không làm quan hoặc làm
quan mà thanh liêm vì dân. Phan Bội Châu là một ví dụ. Đặng Nguyên Cẩn
thân sinh học giả Đặng Thai Mai ở huyện Thanh Chương kề bên cũng là một
ví dụ.
Cần nói rõ là cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi mà thực
dân Pháp ra sức đàn áp mọi sự chống đối để áp đặt nền thống trị của
chúng thì ở Việt Nam vẫn có hai hạng nhà nho. Một bên gồm các kẻ
sĩ “trọng nhân”, “trọng dân” được coi là “chân nho” như Nguyễn
Hữu Huân, Phan Đình Phùng, Trần Quý Cáp… bị thực dân chặt đầu, đào mồ.
Một bên nữa cũng là nhà nho nhưng là “ngụy nho”, hay nói như các
nhà nghiên cứu Trung Quốc là “dương nho, âm Pháp”. Họ cũng nói nhân
nghĩa nhưng quyền mưu cơ biến, móc ngoặc với bọn thực dân để bán nước
hại dân, đục nước béo cò, như Nguyễn Thân đào mồ Phan Đình Phùng, đốt
xác bắn ra biển. Hay như Phạm Ngọc Quát chặt đầu Trần Quý Cáp để được
thưởng công.
Vùng Nghệ An Hà Tĩnh là vùng nổi tiếng Nho học –
trước khi nổi tiếng là vùng Cách mạng Cộng sản Hồ Chí Minh tự giới thiệu
gia đình mình theo đạo Nho, các thanh niên đều học đạo Nho là
chỉ “chân nho”, “chính nho” trái ngược với “ngụy nho”,
“tà nho”.
Nguyễn Sinh Công (tên hồi nhỏ của Hồ Chí Minh) và người
anh Nguyễn Sinh Khiêm đã được cha dạy vỡ lòng chữ Hán. Nhập môn
là sách Tam thiên tự, sau đó là Tam tự kinh mà các thế hệ Việt Nam
đều lấy làm sách vỡ lòng.
Năm tuổi (1895) Nguyễn Sinh Công theo cha vào sống ở
Huế. Người anh được đổi tên là Nguyễn Tấn Đạt và em là Nguyễn Tất Thành
để đến trường (tên để đi học gọi là tên chữ – tự). Sáu năm sau, năm 1901
mẹ mất, Tất Thành về sống ở quê ngoại. Sau đó 3 năm (1904) lại vào Huế
lần thứ 2 và học trường tiểu học Đông Ba hai năm, rồi thi đỗ vào trường
Quốc học Huế. Hai năm sau vì tham gia cuộc đấu tranh chống thuế mà bị
đuổi học. Người đi vào phía Nam vào dạy ở trường Dục Thanh (Phan Thiết)
một năm rồi vào Sài Gòn xin học ở trường công nhân hàng hải Ba Son để
tìm cách đi sang châu Âu tìm hiểu thế giới. Tại đây Người gặp ông chủ
tàu Latouche Tréville rồi xin làm bồi bàn trên tàu. Ngày 5 tháng 6 năm
1911, Người theo tàu rời bến Nhà Rồng – Sài Gòn bắt đầu cuộc sống Tây du
30 năm, qua hơn 10 nước, để đến 1941 trở về Cao Bằng phát động cuộc
Cách mạng giải phóng dân tộc (4).
Nhắc qua vài nét tiểu sử Hồ Chí Minh để khẳng định một
điều: Người xuất thân từ nhà nho. Sự giáo dục vỡ lòng tuổi thơ là
giáo dục Nho học. Đó chính là sự dạy dỗ của nhà nho
Nguyễn Sinh Sắc, của môi trường Quốc học ở cố đô Huế cũng như trường Hán
học Dục Thanh ở Phan Thiết. Sau này, Người tiếp thu văn hoá Âu Mỹ, văn
hoá Nga xô viết và cũng rất thành đạt. Chứng cớ là các truyện ký viết
bằng tiếng Pháp của Người được nhà văn Pháp Vaillant Coutourier thừa
nhận. Người viết báo bằng tiếng Nga, coi nhân văn vĩ đại Léon Tolstoi là
thầy và bắt chước ông viết một số truyện ngắn. Mặc dù vậy, chữ Hán
và Nho học là nét vẽ đầu tiên trên tâm hồn trẻ thơ của Người.
Đương nhiên, chữ Hán và Nho học nói ở đây
đã được tiếp biến qua sự sàng lọc của tâm thức văn hoá Việt Nam .
Bởi vì, nói như Phạm Văn Đồng: 1000 năm Bắc thuộc, Việt Nam
đã tiếp biến văn hoá Trung Hoa mà chủ yếu là chữ Hán và Nho
giáo. Từ chữ Hán, Việt Nam
đã sáng tạo ra chữ Nôm và từ Nho giáo sáng tạo ra Nho
học Việt Nam
(5).
Trong báo cáo khoa học : Hồ Chí Minh với văn hoá Trung
Quốc đọc tại hội thảo quốc tế Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hoá thế giới năm 1990, tôi có nhận định: Hồ Chí Minh chỉ
tiếp thu Nho giáo nguyên thuỷ (tức Khổng Mạnh) mà ít nói đến Hán
Nho, Tống Nho, và trong 4 vế tư tưởng chính trị – đạo đức của Khổng Mạnh
là Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ, người chỉ nhấn mạnh vế thứ
nhất là Tu thân.
Điều này càng được khẳng định vì qua sự nghiên cứu ảnh
hưởng của Nho giáo đối với đời sống văn hoá, tôi thấy Nho giáo
nguyên thuỷ mang nhiều yếu tố nhân văn và dân chủ nhất. Đồng thời,
cũng có thể xem Nho giáo nguyên thuỷ như một thứ lý thuyết về
luân lý của phương Đông, răn dạy con người sống đúng đạo, có trách
nhiệm. Đó là những tín hiệu rất gần gũi với văn hoá bản địa Việt Nam .
Nếu đạo gốc của người Việt cổ là đạo thờ cúng tổ tiên thì chữ Trung
chữ Hiếu của Khổng Tử đã đáp ứng yêu cầu tâm linh đó.
Trước công nguyên – nghĩa là trước khi Nho học
vào Việt Nam ,
tư tưởng của người Việt bản địa là gì? Đó là vấn đề nghiên cứu và trước
hết cần nhiều cứ liệu văn vật, văn hiến và cả sự sưu tầm ca dao dân ca
cổ mà hiện nay vẫn rất sơ sài.
Mặc dù vậy, có phần chắc là trước khi tiếp biến đạo
Nho thì nguyên thuỷ. Người Việt sống gần gũi với thiên nhiên,
sùng bái thần núi và thần nước. Trong bối cảnh đó, những giào điều
có định hướng chính trị rõ rệt của Hán Nho hầu như là một sự ràng buộc.
Bởi vậy nó chỉ tồn tại ở tầng lớp trên, ở nhà quan, còn với dân chúng
lớp dưới thì tồn tại một dòng nước ngược. Bên cạnh câu hát “Con vua thì
lại làm vua, Con sãi ở chùa thí quét lá đa”, còn có câu hát “Bao giờ dân
nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa”. Bên cạnh tam tòng thì
có câu ca dao “Con ơi, mẹ muốn lấy chồng”.
Người Việt chỉ tiếp nhận những giáo lý thích hợp với
truyền thống của mình để làm giàu có thêm nền văn hoá của mình. Đó là
một nét đặc sắc của lịch sử văn hoá dân tộc. Những giáo lý về phẩm chất
người quân tử, trượng phu, hào kiệt, những chuẩn tắc đạo đức trong quan
hệ giữa người với người mà các ông đồ nho dạy cho học trò là phù hợp với
đạo lý vốn có của người Việt. Sự tiếp biến các giáo lý đó đã tạo nên
một nền Nho học Việt Nam ,
có cội nguồn Nho giáo Trung Quốc nhưng lại mang sắc thái Việt Nam .
Tuổi thơ của Nguyễn Tất Thành, những năm tháng ở trường Dục Thanh đã để
lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn “người yêu nước” Nguyễn Ái Quốc.
III NHỮNG LỜI DẠY CỦA NGƯỜI CÓ CỘI NGUỒN NHO GIÁO VIỆT NAM
nên đã khéo léo đưa chân lý cách mạng đến với người dân
bình thường bằng cách nói thân thuộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng những từ ngữ, những mệnh đề
của Khổng Mạnh vốn rất thân thuộc với truyền thống văn hoá Đại Việt để
thức tỉnh dân tộc, truyền cho nhân dân ý thức tự cường để đứng lên làm
chủ đất nước.
Trước hết, Người hay nhắc đến thế giới Đại đồng với
thuộc tính cơ bản của nó là Tứ hải giai huynh đệ. Chúng ta đều biết Đại
đồng là một nội dung quan trọng trong tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo
đức và tư tưởng giáo dục.
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết được
thể hiện ở lý tưởng về một thế giới Đại đồng. Tư tưởng này được nói rõ
trong thiên Lễ vận thuộc Kinh lễ. “Đạo đức lớn được thực hành thì thiên
hạ là của chung. Kén chọn kẻ có tài đức ra làm việc. Giảng giải điều tín
nghĩa, sửa trị điều hoà mục. Cho nên mọi người không riêng thân cha mẹ
mình, không riêng yêu con cái mình, khiến người già cả có chỗ sử dụng
năng lực, các thiếu niên được nuôi dạy khôn lớn. Thương người goá bụa,
thương kẻ mồ côi và những người già không nơi nương tựa. Người tàn tật
phải có chỗ nuôi dưỡng, con trai đều có nghề nghiệp, con gái đều có
chồng con. Như vậy thì của cải vứt bỏ dưới đất cũng không ai nhặt mà
cũng không cần thiết phải cất giữ cho riêng mình. Còn về năng lực thì e
không có cách gì để thi thố mà không cần phải giữ làm của riêng. Do đó
mọi âm mưu đều bị mai một mà không thể xảy ra, mọi hành vi trộm cắp, gây
rối, giặc cướp đều không thể nổi dậy, cửa ngõ không cần đóng. Như thế
gọi là “Đại đồng”.
Trong bài Le Grand Confucius (Đức Khổng Tử vĩ
đại) đăng trên tạp chí Communise số ra ngày 15/05/1921 Nguyễn Ái Quốc
(khi đó mới 31 tuổi) đã giới thiệu thuyết Đại đồng như sau:
“Đức Khổng Tử vĩ đại (năm 551 trước Công nguyên)
khởi xướng nền đại đồng và thuyết giáo quyền bình đẳng về của cải. Người
nói tóm lại là: Nền hoà bình trên thế giới chỉ nảy nở từ nền Đại đồng
trong thiên hạ. Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng” (6).
Có thể thấy Khổng Tử hướng tới một xã hội lý
tưởng, thiên hạ như gia đình, mọi người coi nhau như anh em một nhà,
cùng hưởng thụ các quyền lợi cùng có trách nhiệm với nhau. Trong những
ngôn từ rải rác đó đây, Khổng Tử quan niệm thời xa xưa đã tồn tại
một xã hội như vậy, nhưng do lễ nhạc nhà Chu suy
vi, nên xã hội ngày một xấu đi. Oâng chủ trương khôi phục lễ nhạc nhà Chu
để xây dựng một thế giới Đại đồng. Lý tưởng chính trị đó của ông được
một nhà tư tưởng cận đại là Khang Hữu Vi thuyết giải trong sách Đại đồng
thư. Người Việt Nam ,
nhấ là đầu thế kỷ, thường nói đến thế giới Đại đồng chính là qua sách
vở Tân thư của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu.
Tất nhiên, Đại đồng là gì cũng không ai giải thích được
rõ ràng, có điều nó gắn với thuộc tính “Tứ hải giai huynh đệ” là một
cách sống rất gần gũi với nhân sinh quan người Việt cổ thể hiện qua câu
ca dao có từ thời Hai Bà Trưng:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Hồ Chí Minh khi đã trở thành lãnh tụ dân tộc rất thích
câu ca dao này. Có thể đi ngược lên trên một thời gian, vào khoảng
1940-1945 chính người đã dịch lời bài ca của Quốc tế cộng sản và dùng từ
Đại đồng để dịch từ Internationale.
Điều lý thú là năm 1965 khi đó chủ tịch Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa hồi đó là Lưu Thiếu Kỳ, Hồ Chủ Tịch đã đọc hai câu thơ:
“Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em.”
Rõ ràng, tư tưởng Tứ hải giai huynh đệ của Khổng Tử
đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt Nam
với nội hàm mới: người vô sản khắp năm châu.
Từ tư tưởng chính trị Đại đồng. Khổng Tử đã đề
cập đến tư tưởng công bằng xã hội. Oâng nói:
“Người cai quản quốc gia không lo thiếu của cải mà lo
phân phối không đều, không lo nghèo đói mà lo lòng dân không yên. Đại
phàm đều thì không nghèo, hoà thì không thiếu, yên thì không sợ nghiêng
đổ” (Hữu quố gia giả, bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi
hoạn bất an. Cái quân vô bần, hoà vô quả, an vô khuynh. Luận ngữ Quý
thị).
Có thể thấy, tư tưởng công bằng của Khổng Tử đã
đối mặt với sự phân chia giai cấp bắt đầu xuất hiện trong xã hội nô lệ
nhưng nó đã đụng chạm đến vấn đề cơ bản của quy luật phát triển xã hội
loài người. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, ở miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, chúng ta buộc phải thực hiện chế độ phân phối thời chiến, Bác Hồ
đã từng nhắc nhở cán bộ:
“Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ đói chỉ
sợ lòng dân không yên”.
Năm 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, nhân
dân cả nước lo sợ bọn thực dân hiếu chiến tráo trở, lại lo sợ tình hình
trong nước bất ổn. Hồ Chủ tịch đã chỉ định cụ Huỳnh Thúc Kháng, vốn là
một vị túc nho vừa được Người mời ra gánh vác việc nước, thay mặt Người
giải quyết mọi công việc. Tiễn đưa ở sân bay Gia Lâm, cụ Huỳnh Thúc
Kháng xin Hồ Chủ tịch một lời khuyên. Hồ Chủ tịch nói ngắn gọn: “Dĩ bất
biến ứng vạn biến>” (Lấy sự không thay đổi để đối phó với mọi cái
thay đổi). Đó là một mệnh đề trong Kinh Dịch, hơn thế đó còn là tinh tuý
của Kinh Dịch, nói cụ thể hơn là tinh tuý của triết học nhân sinh trong
Kinh Dịch. Chúng ta biết ngoài phần triết học tự nhiên với mệnh đề nổi
tiếng “Thái cực lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát
quái, bát quái sinh vạn vật”, Kinh Dịch còn có phần triết học nhân sinh
trong đó nổi bậc lên những yêu cầu đối với người quân tử mà hai mệnh đề
nổit tiếng nhất là:
“Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức
Địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật.”
(Trời vận hành khoẻ khoắn, người quân tử cần theo gương
trời mà tự cường không nghỉ. Đất đai rộng rãi, người quân tử nên theo
gương đất mà lấy đức dày chở muôn vật)
Như vậy tinh thần cơ bản của phần triết học nhân sinh
của Kinh Dịch là vận hành biến dịch, tự cường, không vì bất trắc mà lùi
bước, lấy lòng khoan dung để giúp đỡ mọi người cùng tiến lên với mình.
Lời dặn ứng khẩu của chủ tịch Hồ Chí Minh với vị túc nho Huỳnh Thúc
Kháng chứng tỏ mức độ nghiên cứu uyên thâm Kinh Dịch của Người.
Cũng trong những ngày gian nan trắc trở đó của cách
mạng, khi một nữ sĩ (bà Hằng Phương) tặng gói cam, Người làm bài thơ cảm
tạ như sau:
“Cám ơn bà biếu gói cam
Nhận thì không đúng, từ làm sao đây
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai.” (7)
Khổ tận cam lai chính là mệnh đề phát sinh từ nguyên lý
bỉ cực thái lai của Kinh Dịch.
Nhưng có lẽ các mệnh đề sau đây của Nho giáo được
chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng phổ biến hơn. Trước hết đó là Trung và
Hiếu. Lời dạy của Người: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
đã trở thành phương châm hành động của Quân đội nhân dân Việt Nam
trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần quyết chiến quyết
thắng của Quân đội nhân dân trong hai cuộc kháng chiếng chống Pháp và
chống Mỹ xâm lược chính bắt nguồn từ động lực Trung với nước, Hiếu với
dân trong lời dạy của Người. Cội nguồn của Trung và Hiếu nằm trong sách
vở kinh điển Nho gia:
“Quân sử thần dĩ lễ; thần sự quân dĩ trung”
(Thiên Bát dật, sách Luận ngữ)
(Nghĩa là vua sai khiến bề tôi bằng lễ bề tôi phụng vua
nằng trung)
“Hiếu sự thân; thân dĩ thính mệnh”
(Thiên Tế nghĩa, sách Lễ ký)
(Nghĩa là Hiếu để thờ phụng song thân (cha mẹ); thuận để
vâng lời người trên)
Theo Luận ngữ trong xã hội có giữ quan hệ trung, hiếu
thì mới ổn định “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (Quân
quân, thần thần, phụ phụ, tử tử) Luận ngữ thiên Nhan Uyên.
Đương nhiên, trung hiếu là đầu mối của kỷ cương. Nhưng
nếu trung và hiếu theo một hàm nghĩa cực đoan theo kiểu “Quân sử thần
tử, thần tắc tử” (Vua bảo bề tôi chết thì bầy tôi phải chết) hay “Trung
thần bất sự nhị nhân” (tôi trung không thờ hai chủ) thì có lúc, chữ
trung chữ hiếu trở thành sợi dây trói buộc con người, làm cho con người
mất hết tỉnh táo, thiếu đi sự cân nhắc, phán xét cần thiết trước thời
cuộc luôn biến động.
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam
không hiếm trường hợp chết vì “ngu trung”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ lòng trung hiếu của nhân
dân Việt Nam và Người đã phát biểu hàm nghĩa trung hiếu cũ, thích ứng
với hoàn cảnh mới, phú cho nó một ý nghĩa rộng rãi hơn: trung với Tổ
quốc, hiếu với nhân dân. Những năm sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cả
dân tộc Việt Nam, triệu người như một đặt hy vọng và niềm tin vào Hồ Chí
Minh, trìu mến gọi Người là Cha già dân tộc, có không ít người dân theo
tập quán cũ coi Người là vua của nước Việt Nam mới. Sự xác định nội hàm
trung với nước, hiếu với dân không chỉ tiếp nối được truyền thống cũ mà
còn thể hiện đức độ của lãnh tụ.
Cũng như vậy, không chỉ một lân Người nhắc đến mệnh đề:
Phú quý bất năng dâm, bất tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất (giàu
sang không làm cho hư hỏng, nghèo hèn không làm thay đổi ý chí, quyền uy
và vũ lực không khuất phục nổi) của Mạnh Tử và dùng nó để nói về phẩm
chất cần có của người cách mạng.
Trích một đoạn sau đây trong cuốn Sửa đổi lề lối làm
việc, một cuốn sách dạy cán bộ đạo đức cách mạng và phương pháp khoa
học, ký tên X-Y-Z.
“Người Đảng viên, người cán bộ muốn trở nên người cách
mạng chân chính không có gì là khó cả. Điều đó là hoàn toàn do lòng mình
mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ
tiến đến chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm càng
ngày càng ít, mà những đức tính tốt như sau này càng thêm:
Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm 5 điều: Nhân, Nghĩa, Trí,
Dũng, Liêm.
Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí
và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có
hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẳn sàng chịu cực khổ trước mọi
người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ, vì thế mà không hám giàu sang,
không e cực khổ, không sợ oai quyền.
Những người đã không ham, không sợ gì thì việc gì phải
làm họ đều làm được.
Nghĩa là ngay thẳng không có tư tâm, không làm việc bậy,
không có gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích
riêng phải toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ đều ra sức
làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải nói thì nói, không
sợ người ta phê bình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đứng đắn.
Trí vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu
óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết
xem người, biết xem việc. Vì vậy, mà biết việc làm có lợi, tránh việc có
hại cho Đảng mà cân nhắc người tốt, đề phòng người gian.
Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải làm thì có gan
làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Có gan chống lại những sự vinh
hoa phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả tính mệnh
cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.
Liêm là không tham địa vị, không ham tiền tài, không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh
chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm,
ham tiến bộ.
Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó là không phải là đạo
đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh
vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đàng của dân tộc, của loài người.
Cũng như sông thì phải có nguồn thì mới có nước, không
có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng
cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không căn bản, tự mình đã làm hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?
(Trích từ Hồ Chí Minh toàn tập tập 3)
Có thể đồng ý với học giả Nguyễn Khắc Viện: Những văn
kiện như thế có thể in vao một tuyển tập đạo đức chính trị Nho giáo mà
không thấy lạc lõng.(8)
Đương nhiên, trong quá trình 30 năm bôn ba bốn biển năm
châu để tìm đường cứu nước, để tránh được thất bại của các nhà nho
yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh đã tiếp biến
nhiều tư tưởng hiện đại để làm phong phú thêm hành trang văn hoá của
mình. Người từng nói:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự
tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Max có ưu điểm của nó là phương pháp biện
chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách
của nó thích hợp với điều kiện của nước ta…
Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có những điểm chung
đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, mưu cầu hạnh phúc
cho xã hội. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ ở một chỗ, tôi
tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất tốt đẹp như những người
bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ.”
CHÚ THÍCH:
(1) Xin xem kỷ yếu Hội thảo
Quốc tế “Hồ Chí Minh- anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá”
do UBKHXH và NXB KH XH xuất bản. Hà Nội 1990, Trang 355-360. Các bản
tiếng Anh, Pháp, Nga đều có tuyển chọn (LDT).
(2) Văn hoá và đổi mới. NXB
Chính trị Quốc gia. 1995.
(3) Lịch sử và tương lai
của khu vực văn hoá chữ Hán: Đại tu quá thư điếm, Tokyo
1992. Tiếng Hán.
(4) Tất cả các con số và sự
kiện ở trên đây đều lấy từ, Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 1.Nxb S.T. Hà
Nội.
(5) Xem: Văn hoá và Đổi
mới- Sdđ.
(6) Xem: Vũ Kỳ: Bác Hồ viết
di chúc – Sự thật, Hà Nội, 1989.
(7) Theo Vũ Ngọc Phan
(chồng bà Hằng Phương). Văn nghệ số 2,3/ 1985.
(8) Bàn về đạo Nho:
Nxb Trẻ 1998, Trang 64.
(9) Hồ Chí Minh truyện.
Trương Niệm Thức dịch. Lam Liên Thượng Hải tháng 6. 1949, trang 91.
-----0o0-----
Khổng Tử Đến Hỏi Lão Tử Về Lễ
Sách Sử Ký của Tư Mã Thiên đã chép rằng Khổng Tử
đến hỏi Lão Tử về Lễ
Một truyền thuyết khác lại kể rằng trước khi Khổng Tử chào đời,
bà Nhan Thị đã thấy một con kỳ lân nhả ra tờ ngọc thư trên đó có viết
“Thủy tinh chi tử, kế suy Chu vi tố vương = con của Vua Thủy tinh, nối
tiếp nhà Chu đã suy để làm Vua không ngai”. Bà Nhan Thị bèn lấy dây lụa,
buộc sừng con kỳ lân. Vài ngày sau, con kỳ lân biến mất.
Khi Khổng Tử lên 3 tuổi, thân phụ mất. Sách Sử không nói rõ về
tuổi trẻ của Khổng Tử mà chỉ ghi rằng phu tử hay cùng các bạn nhỏ tuổi
bày đồ cúng tế, một điều tỏ rõ bản tính quý trọng các điều lễ nghĩa. Năm
19 tuổi, Khổng Tử lập gia đình và sau đó nhậm chức Ủy Lại với công việc
là cai quản việc đong thóc ở kho, sau lại làm “Tu chức lại” coi việc
nuôi bò, dê, để dùng vào việc cúng tế. Vào lúc này, Khổng Phu Tử đã nổi
tiếng là một người tài giỏi vì vậy một vị quan nước Lỗ tên là Trọng Tôn
Cồ đã cho hai người con theo học là Hà Kỵ và Nam Cung Quát.
Khổng Tử nghiên cứu về Nho Thuật nên rất chú ý đến các lễ nghi
và phép tắc của các bậc đế vương đời trước và muốn tìm hiểu các bản văn,
tài liệu, hình tượng liên hệ, thời đó đang được lưu trữ tại Lạc Dương
(Loyang) là kinh đô của nhà Chu. Năm 28 hay 29 tuổi, Khổng Tử muốn đi
Lạc Dương nhưng vì đường xa, lộ phí quá cao nên đã không thể đi được.
Lúc bấy giờ người học trò cũ là Nam Cung Quát liền tâu với Lỗ Hầu và nhà
vua đã cho Khổng Tử một cỗ xe hai con ngựa và vài người hầu hạ để ra
đi.
Thời đó, người phụ trách tòa nhà lưu trữ các văn thư cổ ghi
chép các biến cố từ thế kỷ thứ 23 trước Tây Lịch trở về sau là Lão Tử
(Lao-tze). Các văn kiện của thời đại đó được khắc bằng chữ cổ lên trên
ngói, tre hay mu rùa. Lão Tử đã giúp Khổng Tử xử dụng các văn khố, sao
chép tài liệu để về sau này dùng làm căn bản cho việc san định sách.
Khổng Tử cũng học về “Lễ" với Lão Tử và về “Nhạc" với Trành Hoằng.
Sách Sử Ký của Tư Mã Thiên đã chép rằng Khổng Tử đến hỏi Lão Tử về Lễ:
Tương truyền,
Khổng Tử qua Chu thăm Lão Tử. Lão Tử cưỡi trâu ra tận đầu làng đón
Khổng Tử. Hai người đàm đạo với nhau trong ba ngày về Đạo
Khổng Tử bái
kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu
Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh
nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của
quyển sách này là gì?”.
Khổng Tử trả
lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.
Lão Tử nói: “Cái
gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê lòng người, giống như như muỗi rận
ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà
thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự
nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự
nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ
trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay
chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác
nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự
nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để
làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh
trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”
Lão Tử lại
hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.
Khổng Tử nói: “Tôi đã
tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.
Lão Tử nói: “Nếu
như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người,
thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo
có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người
thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải
cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì
người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện
như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là
thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác
được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.
Khổng Tử nói: “Tôi
nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’,
giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành
công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương,
nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật
là khó thuyết phục được!”.
Lão Tử nói: “Ông
nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên
vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt
được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.
Khổng Tử
thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục
lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu . Lão
Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có,
nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu ,
e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương
thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử:
“Ông theo
lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những
lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được
thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì
cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh
doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy,
mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức
cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng
ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm
thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu
kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó
chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.
Khổng Tử về đến nhà suốt ba ngày không ra khỏi cửa, bảo
với môn sinh rằng:
"Loài chim, ta biết nó bay được; loài cá ta biết nó bơi
được; loài thú ta biết nó chạy được. Chạy thì ta dùng lưới để bẫy, bơi
thì dùng câu để bắt, bay thì dùng tên để bắn. Còn loài rồng cưỡi gió
cưỡi mây mà bay lên trời thì ta không sao biết được. Nay ta gặp ông Lão
Tử; ông là con rồng chăng ?"
Năm Khổng Tử 51 tuổi, vua nước Lỗ mời ông làm quan Trung Đô Tể tức là vị quan quản trị kinh thành rồi thăng lên cấp Đại Tư Khấu tức là Bộ Trưởng Tư Pháp ngày nay. Trong 4 năm đảm nhiệm chức vụ này, Khổng Tử đã đặt ra các phép tắc, đề ra viêïc cứu giúp các người nghèo khó, quy định việc chôn cất người chết... Nhờ luật lệ phân minh, mọi người dân được dạy bảo các điều lễ nghĩa, trai gái theo lễ giáo, gọi là Nho Giáo từ bấy giờ.
Sau đó, vua nước Lỗ lại cất nhắc Khổng Tử lên chức Nhiếp Tướng Sự, được quyền bàn việc nước. Chuyện còn kể rằng khi cầm quyền, Khổng Tử đã giết kẻ gian thần là Nhiếp Chính Mão và giúp nước Lỗ trở thành một miền đất thanh bình, thịnh trị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét