Bài Viết Của Giáo Sư Trần Lê Sáng Về Sự Nghiệp Ngoại Giao Của Cụ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - Phần 1
Chúng ta vừa nghe bản báo cáo tổng hợp về công lao đóng góp cho dân, cho nước của cụ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan; chúng ta cũng đã được nghe một số bản báo cáo về một số mặt khác trong sự nghiệp lớn lao của cụ Trạng.
Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nói thêm đôi điều về phương diện ngoại giao của cụ. Mà chỉ riêng ở phương diện này thôi, có lẽ nhiều người cũng đã biết, nếu chỉ trình bày trong mươi trang giấy, sự trình bầy sẽ vô cùng thiếu sót so với sự nghiệp đối ngoại lớn lao của Cụ. Các vị học giả lớn thời xưa của nước ta như cụ Lê Quý Đôn, cụ Phan Huy Chú, trong các bộ sách Kiến văn tiểu lục, Lịch triều hiến chương loại chí, khi khảo cứu về lịch sử bang giao lâu đời của nước nhà, đã đánh giá cao sự nghiệp đối ngoại của cụ Trạng Bùng. Một số bộ quốc sử của ta cũng trân trọng ghi công lao về việc đối ngoại của cụ Trạng. Ở đây, chúng tôi không thể từng đoạn, từng lời dẫn lại hết được, chỉ xin dẫn mấy câu văn vần dễ nhớ trong bộ Đại Nam quốc sử diễn ca của nhà sử học tài hoa và độc đáo Lê Ngô Cát. Mấy câu đó là:
Phùng Khoan sứ tiết cũng già
Biểu Từ biên chiết thật đà thiết minh
Mấy lời ôn du đinh ninh
Phong vương còn đợi biểu tinh có ngày(1)
Bốn câu thơ nói về Phùng Khoan, tức nói về cụ Phùng Khắc Khoan, trong bộ Đại Nam quốc sử diễn ca mà chúng tôi vừa trích dẫn đó, thoạt đọc, chúng ta thấy cũng bình thường, nhưng đọc kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy có khá nhiều điều đáng lưu ý.
Về chuyến đi sứ Yên Kinh dài ngày, đầy gian khổ, song cũng nhiều kỷ niệm của quan Thị lang họ Phùng, chúng tôi có dịp viết khá nhiều trong tập sách Phùng Khắc Khoan - cuộc đời và thơ văn xuất bản năm 1985, ở đây, xin không nhắc lại nữa. Chỉ xin nói rõ hơn một vài điểm.
Nói về đóng góp ở phương diện ngoại giao của cụ Phùng Khắc Khoan, chúng ta có thể kể đến ba lần đạt thành công, trong công tác đối ngoại của cụ; trong đó, hai lần cụ tiếp xúc với sứ giả nhà Minh, một lần tiếp xúc với triều đình Minh tại ngay kinh đô Yên Kinh.
Chuyện lần đầu tiên tiếp xúc với sứ giả nhà Minh của nhà học giả Phùng Khắc Khoan là một câu chuyện thú vị. Có lẽ đây là một giai thoại. Nhưng giai thoại nào mà chẳng có hạt nhân hiện thực, dù là rất nhỏ đi nữa. Vấn đề là chúng ta phải lần mò qua nhiều tầng trầm tích do thời gian tồn đọng, để từ trong những tầng trầm tích đó, chúng ta có thể đến được với hiện thực. Chuyện kể rằng, đúng vào cái thời cụ Phùng bị triều đình Lê - Trịnh bắt đi đầy vào xứ Mang Quạ, triều đình nhà Minh đã phái sứ giả sang ta thảo luận việc đánh phỉ ở biên giới. Điều tai ác là trước khi thảo luận cụ thể, vị sứ giả này chỉ trình thư của nhà Minh, trong thư cũng chỉ có hai chữ “Thanh Thúy”. Cả triều đình không ai hiểu hai chữ “Thanh Thúy” có liên quan đến việc đánh phỉ như thế nào. Triều đình phải phái người vào tận xứ Mang Quạ triệu cụ Phùng về. Cụ về triều nghe xong đầu đuôi câu chuyện, liền nói:
- Đây là Minh triều muốn triều ta đến tháng mười hai ra quân, phối hợp với họ để đánh phỉ.
Vua lấy làm lạ, hỏi sao biết?
Cụ từ tốn đáp:
- Chứ “Thanh” là do chữ “Thập”, chữ “Nhị” và chữ “Nguyệt” ghép lại; chữ “Thúy” là do chữ “Vũ” và chữ “Tốt” ghép lại. Vậy, “Thanh Thúy” chính là “Thập nhi nguyệt, vũ tốt”; nghĩa là “Tháng Mười hai, ra quân”.
Sự việc đúng như vậy. Sứ giả nhà Minh vô cùng khâm phục nhân tài nước
Lần thứ hai cụ Phùng Khắc Khoan tiếp xúc với phía nhà Minh trong hoàn cảnh khá nghiêm trọng. Đó là việc cuối tháng Giêng năm Bính Thân, tức năm 1596, triều đình phái Cụ cùng hai người anh họ vua là Lê Ngạnh và Lê Hựu cùng một đoàn vài mươi cụ kỳ lão mang giấy tờ và tiền bạc lên biên giới Trấn Nam Giao để làm việc với đại diện nhà Minh về việc công nhận nhà Lê.
Theo quốc sử ghi lại, cuộc gặp gỡ giữa hai đại diện của nhà Lê với đại diện của nhà Minh lần này có ý nghĩa ngoại giao rất lớn. Về phía nhà Lê, cuộc gặp gỡ lần này là điểm mốc nối lại qua hệ với nhà Minh sau gần bảy mươi năm bị gián đoạn; về phía nhà Minh, cuộc gặp gỡ lần này, lại là việc bỏ thái độ kỳ thị, trở lại công nhận nhà Lê là đại diện chính thức trong quan hệ nhà nước. Tất nhiên, nhà Lê đã chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này rất chu đáo; mọi người mong đợi kết quả tốt đẹp của cuộc gặp gỡ ở biên giới lần này. Theo sử chép, chỉ trong mấy ngày mà nhà Lê đã cho nhiều đoàn lên biên giới để chuẩn bị tiện nghi và công việc bảo vệ. Sách Toàn thư chép “ngày 29 (tháng Giêng, Bính Thân), cử đoàn Hộ bộ Thượng thư kiêm Đông các học sĩ Thông Quận công Đỗ Uông và Ngự sử đài Đô Ngự sử Nguyễn Văn Giai làm hậu mệnh đến trước cửa Trần Nam Giao cùng với Tả giang binh Tuần đạo của nước Minh là Trần Đôn Lâm trao đổi giấy tờ với lời lẽ khiêm tốn. Sau lại sai Hữu tướng Hoàng Đình Ái đem quân tiếp đến Mưu Sơn”. Và ngay sau đó, tiếp đến là đoàn của Công bộ Tả thị lang Phùng Khắc Khoan “mang hai bản dập của ấn An Nam Đô thống Sứ ty và ấn An Nam Quốc vương cùng 100 cân vàng, 1000 lạng bạc” lên ngay Trấn Nam Giao để chờ cuộc họp(2).
Cuộc họp ở biên giới lần này, được phía nhà Lê chuẩn bị chu đáo và đầy thiện chí như vậy, song đáng tiếc lại không thành phía nhà Minh hủy lời hẹn trước, họ lại ra thêm điều kiện là chính vua Lê phải lên biên giới họp với đại diện của nhà Minh. Nhà Lê đã nhân nhượng, vua Lê Thế Tông đã lên tận biên giới chờ hộ khám. Nhưng phía nhà Minh lại đưa ra nhiều yêu sách khác, vua Thế Tông chờ đợi ở biên giới hơn hai tháng không họp được phải trở về kinh đô. Trong việc chuẩn bị cho cuộc họp này, người chạy đi chạy lại vất vả nhất, phải kể là quan Hộ bộ Thượng thư Đỗ Uông! Nhưng mọi cố gắng đều không thành. Sau đó, cụ Phùng Khắc Khoan phải sang tận Yên Kinh để dàn xếp. Điều đó có lẽ cũng chứng tỏ rằng, trong việc chuẩn bị cho cuộc họp ở biên giới nói trên, có thể quan Tả Thị lang họ Phùng đã có đóng gớp đáng kể nào đó, hoặc có ý kiến đáng lưu ý nào đó, bởi vậy, triều đình mới lưu ý đến tài năng đối ngoại của cụ, chọn cụ đi sứ Yên Kinh, mặc dầu lúc bấy giờ Cụ đã bảy mươi tuổi.
Chuyến đi sứ Yên Kinh của cụ Phùng Khắc Khoan vô cùng gian khổ, song cuối cùng đã đạt thành công tốt đẹp. Nói về sự gian khổ, tất nhiên trước hết phải kể đến việc lặn lội đường xa muôn dặm; khi đi phải hôn một năm trời mới đến (khi về có nhanh hơn). Đoàn sứ bộ có hai mươi ba người, trong đó có một phiên dịch. Đoàn do Công bọ Tả Thị lang Phùng Khắc Khoan làm Chánh sứ, Thái thường Tự Khanh Nguyễn Nhân Thiệm làm Phó sứ. Đoàn vừa đến biên giới Lạng Sơn đã gặp khó khăn: phía nhà Minh không cho đoàn nhập cảnh, với lý do là họ chỉ biết nhà Mạc, không biết nhà Lê nào cả. Trưởng đoàn sứ bộ Phùng Khắc Khoan đã thuyết phục được đối phương để tiếp tục làm nhiệm vụ. Với một đoàn Sứ bộ mà ngay từ đầu dã bị kỳ thị như vậy, việc đón tiếp dọc đường chắc cũng nhạt nhẽo. Dọc đường đi sứ, cụ Phùng có làm nhiều thơ, sau cụ đưa vào một tập, đặt tên là Sứ Hoa thi tập, chúng ta không thấy có bài nào cụ viết về sinh hoạt dọc đường đi sứ, nhưng thơ phản ánh tâm sự buồn bực thì có. Ví như bài Qua hồ Phiên Dương, có hai câu cuối:
Bao la hồ chứa không bờ bến
Dò thử xem ai bảo cạn nông
(Trần Lê Sáng dịch)
Hoặc trong bài Rừng mai ở núi Dũ Lĩnh cũng có hai câu kết:
Điều canh lại có tay tài giỏi
Chẳng phụ hòa khôi đệ nhất này
(Bùi Duy Tân dịch)
v.v…
(1) Lê Ngô Cát, Đại
(2) Đại Việt sử ký toàn thư - bản dịch, tập IV, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973, Tr 211
Giáo sư Trần Lê Sáng
Viện Khoa học Xã hội Việt
(Bài viết được lấy từ cuốn sách “Phùng Khắc Khoan- Cuộc đời và thời đại”
Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân văn hoá Phùng Khắc Khoan 1992)
Bài Viết Của Giáo Sư Trần Lê Sáng
Về Sự Nghiệp Ngoại Giao Của Cụ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - phần cuối
Về sự nghiệp ngoại giao của cụ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan- Phần cuối
(Xem lại phần 1)
Sau hơn mười hai tháng lặn lội vất vả, đoàn Sứ bộ do cụ Phùng dẫn đầu đã đến được Yên Kinh; nhưng đoàn lại không được nhà Minh chính thức đón tiếp. Nhà Minh không chấp nhận nhà Lê Trung Hưng là đại biểu của nước
Thành công của chuyến đi sứ đầy gian khổ của cụ Phùng Khắc Khoan được đánh giá cao. Triều đình cử hẳn một đoàn có nghi lễ trang nghiêm lên tận biên giới đón đoàn cụ trở về. Cụ được phong từ Công bộ Tả Thị lang lên Lại bộ Tả Thị lang, tước Mai Lĩnh hầu. Cụ được triều đình kính trọng, Thành Tổ Trịnh Tùng gọi cụ là Phùng Tiên sinh chứ không gọi tên. Còn nhân dân càng vô cùng quý mến công đức của Cụ. Sách Lịch triều hiến chương chép: “Người trong nước đều gọi là Trạng Nguyên, vì kính mến tài năng của cụ” (Sđd. Tr.213). Danh hiệu Trạng Bùng của cụ Phùng Khắc Khoan được lưu hành từ sau chuyến đi sứ của cụ vậy.
Trong tập thơ Sứ Hoa thi tập, có chép được một bài thơ của Phùng Sứ quan Tiễn quốc sứ nước Lưu Cầu, bài thơ viết đầy tình hữu nghị, có hai câu cuối như sau:
Thử hồi huề mãn thiên hương tụ
Hòa khí huân vi vạn vũ đồng
Nghĩa là:
Ông về nước lần này, mang đầy hương hữu nghị,
Không khí chan hòa, bay tỏa khắp muôn nhà.
Nhưng đặc biệt đáng lưu ý hơn cả, đó là việc trong chuyến đi sứ của cụ Phùng Khắc Khoan lần này, Cụ đã có quan hệ hết sức thân thiết với Sứ bộ nước Triều Tiên do Lý Chi Phong Đạo nhân làm Trưởng đoàn và Kim Tiêu Dật sĩ làm Phó đoàn. Hai đoàn Sứ bộ Việt
Giáo sư Trần Lê Sáng
Viện Khoa học Xã hội Việt
(Bài viết được lấy từ cuốn sách “Phùng Khắc Khoan- Cuộc đời và thời đại”
Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân văn hoá Phùng Khắc Khoan 1992)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét