(Hình Ảnh Thế Giới Đại Lễ Tế Tổ Tiên Thần Nông Viêm Đế
Nguồn Gốc Cổ Người Bách Việt - Tham Khảo)
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy
Thủy Tổ
佛教祭祖大典
Phật Giáo Tế Tổ Đại Điển
Ngày mùng 1
tháng 2 năm 2013, tại Đài Loan, Phật giáo, Thiên chúa giáo và nhiều giáo
phái khác của nhiều nước trên Thế Giới đã tham gia tổ chức Đại lễ tế tổ
tiên gọi là liệt tổ liệt tông vạn linh quy tâm đại điển (đều quy về đạo
tổ Thần Nông Viêm Đế, Hoàng Đế, Long Đế) gốc rồng tiên, đó là đạo tiên,
đạo gia tiên thờ cúng tổ tiên của loài người.
Theo rất
nhiều sách cổ để lại và nghiên cứu nhiều năm của các nhà sử học trên thế
giới, nhất là ở Trung Hoa và Đài Loan. Đã khẳng định tam vị: Xi Vưu,
Hoàng Đế, Viêm Đế 蚩尤, 黄帝, 炎帝. Mới chính là thủy tổ của loại người.
Từ khi Trái
Đất còn khai sơ, khi được trời đất tạo hóa và sinh ra 3 vị trên nhân
gian. Để giúp con người làm ăn, sinh sống 3 vị đã phát minh và chế tạo
ra công cụ nông canh, chế y quan, y phục, chữ viết, phát minh chỉ nam
xa. Nhất là thần nông viêm đế 5.000 năm trở về trước là người dạy dân
trồng lúa nước (gọi là ngũ cốc), chế tạo ra lửa lập thị triền tác đào
khí, lập chợ, nghiên cứu ra rất nhiều loại thuốc chữa bệnh từ cỏ cây. Để
lại cuốn sách thần nông bản thảo kinh đến ngày nay. Ba vị là người đầu
tiên nghiên cứu ra 12 con vật đó là tí, sửu, dần, mão, thìn,… và sau đó
mới có ngày giờ. Cũng là người nghiên cứu ra kinh dịch và rất nhiều khoa
pháp kinh dịch, thông thiên độn toán, hô mây
gọi gió, phép chữa bệnh, trị bệnh và rất nhiều phép thuật cổ xưa truyền
lại đến ngày nay.
Để lại cho
đời sau, và sau này Quỷ Cốc Tiên Sinh đã học được pháp thuật, độn quẻ và
tiên đoán giúp và bổ ích cho rất nhiều đề tài, để các nhà nghiên cứu
phát minh ra những công trình và những kỹ thuật phương tiện tiên tiến.
Sách cổ ghi
lại Thần Nông, ngoài việc là ông tổ nông nghiệp, người đã dạy dân trồng
ngũ cốc và chế tạo ra cày bằng gỗ, ông tổ nghề gốm sứ và nghề y dược .
Thần
Nông Viêm Đế
Gốc Tổ Rồng Tiên Của Người Bách Việt
------------------0o0-----------------
祭祖大典 Tế Tổ Đại Điển
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật
Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ
Tiên Vạn Linh Quy Thủy Tổ
Phật Giáo Với Cội Nguồn Đại Lễ Tế Tổ Tiên Vạn Linh Quy
Thủy Tổ
(Tìm Hiểu)
Tam Vị Thánh Lão Khổng Thích
Câu chuyện
chưa kể trong lịch sử: Lão Tử, Khổng Tử và Phật Thích Ca Mâu Ni
Trích trang :Chánh Kiến
» Văn hóa Thần truyền » Ôn cổ minh kim
Bản in
Tác giả: Bất
Danh
[Chanhkien.org] Sau khi
thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có học
phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Trung Hoa bằng Nho gia và
Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích Ca Mâu Ni,
Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.
Thật trùng
hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo
góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571
Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện
Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566
Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15
năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời
tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.
3 vị Thánh
giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay
là Ý Trời đã an bài như vậy?
Trích trang :Chánh Kiến
» Văn hóa Thần truyền » Ôn cổ minh kim
Lão Tử
“Lão Tử” tên
thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức
lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương
truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi
việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương
với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia)
và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán). Lão
Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu .
Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu
phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị
bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp
4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.
Ngày 1 tháng 9
năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua
cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ
có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường
để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói: “Tiên sinh Ngài
muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên
sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”. Lão Tử tại Trung Nguyên
chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định
là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại
cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó,
Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa
là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về
nơi đâu.
Khổng Tử từng
đến kinh đô nước Chu , thỉnh giáo Lão Tử về Lễ
chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư
tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu .
Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các
vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các
quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh
thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối
quan trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát
lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều
học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu ”.
Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và
nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ
chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được
ích lợi không hề nhỏ.
Khổng Tử bái
kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu
Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh
nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của
quyển sách này là gì?”.
Khổng Tử trả
lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.
Lão Tử nói: “Cái
gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi
rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền
não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông
vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà
tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ
trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay
chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác
nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự
nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để
làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh
trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”
Lão Tử lại
hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.
Khổng Tử nói:
“Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.
Lão Tử nói: “Nếu
như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người,
thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như
Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho
người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó
giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người
khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song
những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy
chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách
chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường
được”.
Khổng Tử nói:
“Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’,
‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con
đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70
quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra
người ta thật là khó thuyết phục được!”.
Lão Tử nói: “Ông
nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên
vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt
được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.
Khổng Tử
thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục
lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu . Lão Tử đối với
việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn
khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu , e rằng không
thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu
ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử
nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều
đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà
thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính,
thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy.
Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không
cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng
không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu
độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo
và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ
chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có
chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.
Khổng Tử
không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của
mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham
quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong
lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc
Dương của nhà Chu . Phấn khởi là vì học hỏi lễ
giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử.
Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử
đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.
Khổng Tử trở
về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là
thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó
có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng
lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể
bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không
biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm
nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo
lường nổi!”.
Đó chính là
sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của
nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không
cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình
huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì
ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn
của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.
Trích trang :Chánh Kiến
» Văn hóa Thần truyền » Ôn cổ minh kim
Khổng Tử
Khổng Tử tên
thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước
công nguyên.
Khi lớn lên,
Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp
tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ
chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ
vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây
dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường
cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho
rằng ông là người phi thường.
Sau khi Khổng
Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước
Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử
là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử
giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà
nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo
dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian,
có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.
Lúc Khổng Tử
35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước.
Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề
tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người
cha, con cần có phong thái của con”. Cảnh Công nghe xong nói: “Cực
kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi,
cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực,
ta làm sao có thể ăn được đây!”. Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo
Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần
nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh
Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng
Tử.
Yến Anh
khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng
pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là
đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng
thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu
xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện
nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ
triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả
đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để
thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để
dẫn dắt trăm họ”.
Yến Anh
khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ
độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong
số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công
nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho
ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.
Tại nước Lỗ,
Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một
vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà
Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không
chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất
trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu . Khổng Tử biết
con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy
học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.
Lúc đó Khổng
Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn
dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều
không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước
Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng
không muốn ra làm quan nữa.
Tuy là một
người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối
đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học
trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9
năm cuối đời mình.
Thời đại
Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha,
‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu
chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng
thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu
đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được
nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ
đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong
đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.
Lúc về già
Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào
từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi
sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói: “Để ta
sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội
dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch””.
Khổng Tử nói:
“Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được
tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến
cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch
sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu
tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12
đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng
tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở
rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời
văn súc tích uyên thâm.
Cuối cùng
Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân
thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò,
đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72
người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.
Lúc Khổng Tử
lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái
Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”.
Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo
lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7
ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu,
tháng 4 năm 479 trước công nguyên.
Sách “Luận
Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và
việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho
chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế
nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo
“Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung
Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.
Tư Mã Thiên
nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi
cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta
tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức
thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng
chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân,
nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu
đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết
ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh
nhân chí cao vô thượng”.
Tư Mã Thiên
đã đánh giá rất đúng.
Trích trang :Chánh Kiến
» Văn hóa Thần truyền » Ôn cổ minh kim
Phật Thích Ca
Mâu Ni
Trong lúc Đại
Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng
thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương
Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.
Thích Ca Mâu
Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất
Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh
hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ
đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước
đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời,
một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt
đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế.
Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám
kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như
vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo
cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu
luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên
để mà tâng bốc.
Thích Ca Mâu
Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm
ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời
bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ
loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni
tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới
cảnh giới này. Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là
chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi
tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó
cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ
những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo. Ông không thể tìm thấy
một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá
phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa
quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm
chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không
phải là Đạo, bèn xuống núi.
Thích Ca Mâu
Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê
bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông
một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không
có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông
vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền
định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng
chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.
Thích Ca Mâu
Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ
49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng
trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng
siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập
tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp
sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác
nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ. Bởi vì năng lượng phóng ra
trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong
phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận
động đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ
của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không
làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt
cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời
truyền Pháp 49 năm của mình.
Đặc điểm của
pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới
chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập
định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có
mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu
hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.
“Mọi người
đều biết rằng Bà La Môn giáo là Thích Ca Mâu Ni phản đối nhiều nhất. Ông
cho rằng [nó] là một tà giáo, nó cùng với Phật Giáo của Thích Ca Mâu Ni
là đối lập [với nhau] nhất. Kỳ thực tôi cho chư vị biết rằng: Thích Ca
Mâu Ni chống đối Bà La Môn giáo chứ không phải chống đối Thần của Bà La
Môn giáo. Thần mà Bà La Môn giáo tin theo vào thời kỳ nguyên thủy nhất
đều là Phật, [họ] tin theo chính là các vị Phật trước thời Thích Ca Mâu
Ni. Nhưng qua thời gian quá lâu dài, con người không còn tin Phật nữa,
khiến cho tôn giáo này trở thành tà giáo, thậm chí [họ] sát sinh để tế
lễ Phật. Cuối cùng, Thần mà họ tin tưởng và tôn thờ kia cũng không còn
là hình tượng Phật nữa, [họ] bắt đầu tin theo và thờ phụng yêu ma quỷ
quái có hình tượng quái vật. Con người đã làm cho tôn giáo trở thành tà”. (Giảng
Pháp tại Pháp hội Houston).
Lời nói và
việc làm của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền
sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời
gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ.
Bởi Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá trình
truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn
giáo khác, cho nên không ngừng có những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y
Phật giáo. Như một trong những đồ đệ của ông, người mà sau này trở
thành Xá Lợi Phất ban đầu là người của Bà La Môn giáo. Ông cùng Thích Ca
Mâu Ni tranh luận, biết Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp,
bèn rời bỏ Bà La Môn giáo và trở thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất
của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền
càng lúc càng cường thịnh, còn các tôn giáo kia càng lúc càng suy tàn.
Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo kia kỳ thị và phản đối. Trong thời
gian mâu thuẫn tôn giáo lên đến đỉnh điểm, xuất hiện sự kiện các đệ tử
Phật giáo bị sát hại một cách công khai. Người đệ tử có Thần thông nhất
là Mục Kiền Liên bị những kẻ ngoại đạo lăn đá từ trên núi xuống đè chết,
trở thành đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni chết vì lý tưởng của
Phật giáo. Ngoại đạo còn bắt bớ đệ tử của Phật Thích Ca, ném họ vào hầm
lửa, hoặc trói vào cột rồi dùng cung tên bắn chết. Sau khi Phật Thích Ca
Mâu Ni không còn tại thế, 500 đệ tử của Phật từng bị người ta chém đầu.
Sự kiện bức hại ấy khiến người ta vô cùng đau xót!
Sau khi Phật
Thích Ca Mâu Ni không còn trên thế gian, các tôn giáo khác bắt đầu hưng
thịnh trở lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng đã
kết hợp với những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một loại tôn giáo
mới là Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không
thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối
cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, Từ Trung
Quốc đã truyền Phật Pháp rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa
của những quốc gia này.
Trích trang :Chánh Kiến
» Văn hóa Thần truyền » Ôn cổ minh kim
Tài liệu Tham
khảo
1. Giảng Pháp
tại Pháp hội châu Âu
2. Chuyển Pháp Luân
3. Giảng pháp tại Pháp hộiHouston
2. Chuyển Pháp Luân
3. Giảng pháp tại Pháp hội
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/5/7/37440.html
http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=4004
Chia sẻ bài
viết này
Ngày đăng:
20-03-2010
Ảnh Tam Vị
---------------0o0-----------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét