HỒ ĐỘNG ĐÌNH
Cổng Đền
Ảnh Tác Giả và Bác Sĩ Nguyễn Xuân Quang Tại Hồ Động Đình
Ảnh về Động Đình Hồ xem cuối bài viế
(Trích: Tác giả Nguyễn Xuân Quang)
Ảnh Bác Sĩ Nguyễn Xuân Quang Tại Hồ Động Đình
Đền Động Đình thờ Long Vương ở đảo Quân Sơn, trong Hồ Động Đình tỉnh Hồ Nam , Trung Hoa ngày nay. Theo truyền thuyết Việt, Công chúa Thần Long hay Long Nữ, con Long Vương lấy Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân. Long Vương là ông ngoại của Lạc Long Quân.
Cổng tam quan có 9 con rồng (cửu long). Số 9 là số Chấn thế gian mang nghĩa nước-lửa, sấm mưa, mặt trời nước, nước dương chuyển động (biển, sông…), bản thể của Lạc Long Quân. Lưu ý mái cổng tam quan hình gợn sóng, mái cổng chính hình vòm (vòm vũ trụ, không gian, vòm trời), đầu cột có hình cầu tròn (nòng) mang âm tính thuộc ngành nòng, âm, nước, không gian, Thần Nông đối ngược với mái, các trụ đầu nhọn, có góc cạnh mang dương tính nọc, dương, lửa, mặt trời, Sao Viêm Đế.
Bài viết về Hồ Động Đình này gồm hai phần: Một phần là Hồ Động Đình nhìn tổng quát và một phần là Hồ Động Đình và Truyền Thuyết Việt.
Cám ơn anh Đỗ Ngọc Thành, một nhà khảo cứu chữ Hán và chữ Nôm cổ Bách Việt đã giúp chuyển các bài thơ chữ Hán qua Hán Việt và Việt ngữ cũng như đã góp ý.
Trên con đường Đi Theo Dấu Chân Quốc Tổ Đại Tộc Việt để khảo cứu về nguồn cội, tìm cái căn cước Việt khởi đầu đi từ truyền thuyết vua thế gian đầu tiên Kì Dương Vương của nước Xích Quỉ (Người Mặt Trời) lấy con gái Long Vương ở Hồ Động Đình sinh ra Lạc Long Quân, trước tiên chúng tôi tìm về Hồ Động Đình. Theo truyền thuyết Hồ Động Đình là cội nguồn của Đại Tộc Việt, của Bách Việt.
Theo Lĩnh Nam Chích Quái thì biên cương phía bắc của nước Văn Lang lên tới Hồ Động Đình, xa hơn các đỉnh Ngũ Lĩnh vài trăm dặm về phía Bắc..
Cũng nên biết Lĩnh Nam là phần đất phía nam của rặng núi Nam Lĩnh (rặng núi Lĩnh ở phía nam), một trong năm ngọn núi Lĩnh gọi là Ngũ Lĩnh. Lĩnh Nam gồm những vùng phía nam tỉnh Hồ Nam, tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, một phần Vân Nam và Bắc Việt Nam. Ngày nay Quảng Châu thủ phủ của Quảng Đông vẫn còn dùng từ Lĩnh Nam để tự gọi mình.
Ngoài Hồ Động Đình ra, Hồ Nam có Bảo Tàng Viện nổi tiếng thế giới Đồi Mã Vương (馬王堆).
Khu đồi cao Mã Vương là khu mộ cổ nhà Tây Hán (khoảng 186-165 Trước Tây Lịch). Mộ bắt đầu được khai quật vào thập niên 1970, trong đó có thi hài của bà Tân Truy (辛 追) được ướp vẫn còn trong tình trạng tốt. Người ta cũng tìm thấy trong mộ phiên bản sớm nhất của Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Đây là một bảo tàng viện báck khoa của thời Tây Hán.
Tìm về Hồ Động Đình với một tâm hồn đầy ắp huyền thoại Bách Việt như đi vào một giấc mơ, đi trong huyền thoại trở về nguồn cội từ thuở khai thiên lập địa, từ thuở hồng hoang, từ thuở khai sinh của dòng giống Xích Quỉ, dòng giống Bách Việt.
Hồ Động Đình ( 洞庭湖; phiên âm: Dòngtíng hú; là một hồ lớn, ở phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam . Hồ Động Đình là một thứ biển hồ điều hòa lưu lượng nước của sông Dương Tử tương tự như biển hồ Tonlé Sap điều hòa lưu lượng nước của hạ lưu sông Mekong ở Campuchia. Kích thước của hồ phụ thuộc vào mùa, nhưng về tổng thể hiện nay là hồ nước ngọt có diện tích lớn thứ nhì tại Trung Quốc sau hồ Bà Dương (鄱陽湖). Thật ra ngày xưa, về thời nhà Hán, với đầm lớn Vân Mộng (雲夢大澤 - Vân Mộng đại trạch) nằm ở phía bắc Hồ Động Đình, ở tỉnh Hồ Bắc, Động Đình là hồ lớn nhất Trung Quốc và được gọi là Bát bách lý Động Đình (八百里洞庭 - Hồ Động Đình 800 dặm). Ngày nay, một phần hồ đã biến thành đất trồng trọt nên Động Đình mới trở thành hồ lớn thứ hai sau hồ Bá Dương. Hồ rộng lớn nhất vào mùa nước lũ từ tháng 7 tới tháng 9 từ sông Dương Tử đổ vào hồ. Diện tích tăng lên gần gấp mười lần vào mùa nước lũ.
Ngoài sông Dương Tử ra, hồ còn được bốn con sông khác đổ vào là Tương Giang, Tư Giang, Nguyên Giang và Lệ Thủy. Ngoài ra sông Tiêu đổ vào sông Tương gần Trường Sa trước khi sông Tương đổ vào hồ vì thế khúc sông này được gọi là Tiêu Tương. Sông Tương, Tiêu Tương là những con sông nổi tiếng được nói tới rất nhiều trong văn chương Trung Hoa và Việt Nam . Hồ Động Đình phong cảnh Thần Tiên được mệnh danh là Tiêu Tương Hồ Nam .
Tỉnh Hồ Nam là châu thổ sông Tương nên Hồ Nam có khi gọi tắt là Tương theo tên con sông nổi tiếng này. Sông Tương thường liên kết với chia ly. Tương trúc là thứ tre đốm quí ở tỉnh Hồ Nam , đốm có hình giọt nước mắt (xem dưới). Truyền thuyết Việt cũng ghi rằng Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay nhau ở cánh đồng Tương…
ĐẢO QUÂN SƠN
Đảo Quân Sơn nguyên gốc gọi là núi Động Đình hay Tương Sơn .Đảo cách thị trấn Lạc Dương bên bờ khoàng 13 km, chiều rộng 1 km,
Có 72 đỉnh núi, 36 đình quán và 48 đền. Phong cảnh ở đây đi cùng với hồ thật Thần Tiên như chốn bồng lai tiên cảnh, đã nổi danh hàng ngàn năm nay. Tương truyền rằng ngày xưa có tiên xuất hiện ở đây. Cảnh sắc thay đổi theo bốn mùa. Về mùa xuân hoa cỏ muôn mầu muôn sắc. Mùa hạ, trời quang mây tạnh là lùc thấy rõ toàn cảnh hồ. Mùa thu khói sương huyền ảo như chốn thiên thai. Đêm đêm văng vẳng vọng lại tiếng hát câu hò của người dân chài trong thinh lặng. Mùa đông là lúc những loài di điểu trở về…
Cảnh sắc huyền ảo như trong một bức tranh sơn thủy.
Ngày trước nơi đây là nơi ẩn cư của các đạo sĩ. Bao nhiêu vua chúa, vương giả, tao nhân mặc khách đã tới đây để xa lánh trần tục, tĩnh dưỡng, ngoạn cảnh. Bao nhiêu thi bá, thi hào, thi thánh, thi tiên tới đây đề thơ. Trong đó có thi tiên Lý Bạch có nhiều bài thơ viết về Hồ Động Đình. Một bài thơ của Lý Bạch được khắc lên bức tường đá ở đây:
Ngẩng mặt ngằm trời thu trên Hồ Động Đình, thi tiên Lý Bạch đang làm thơ.
Dưới đây là phần chuyển qua Hán Việt và Việt ngữ của bài thơ có hàng chữ lớn “Đan thanh họa xuất thị Quân sơn” khắc trên tảng đá ở hình trên và lời ghi chú của anh Đỗ Ngọc Thành.
李白 Lý Bạch
游洞庭五首/其五 Du Động Đình
帝子瀟湘去不還. Đế tử tiêu tương khứ bất hoàn
空余秋草洞庭間. Không dư thu thảo Động Đình gian
淡掃明湖開玉鏡. Đạm tảo minh hồ khai ngọc kính
丹青畫出是君山. Đan thanh họa xuất thị Quân sơn
Dịch qua Việt ngữ:
Nơi sông Tiêu Tương Vua đi mà không về, chỉ còn cỏ thu ở Động Đình gian, gió nhẹ tan sương thấy mặt hồ, nắng lên họa rõ ra là Quân Sơn.
*** Du Động Đình của Lý Bạch có tới năm bài, đây là bài thứ năm và còn nhiều bài khác của Lý Bạch cũng nói về Hồ Động Đình…
Bài thơ Lý Bạch làm cả hơn ngàn năm rồi mà vẫn thầy rất đúng ngay trước mắt chúng tôi ngày cuối thu hôm đó: “Gió nhẹ tan sương thầy mặt hồ” và “Nắng lên họa rõ ra là Quân Sơn”.
Và Lưu Vũ Tích với bài Vọng Động Đình:
Sau đây là phần chuyển qua Hán Việt và ghi chú của anh Đỗ Ngọc Thành:
望洞庭-Vọng Động Đình
刘禹锡-Lưu Vũ Tích
湖光秋月两相和. 潭面无风镜未磨.
Hồ Quang thu nguyệt lưỡng tương Hòa, Đầm diện vô phong kính vị ma
遥望洞庭山水翠. 白银盘里一青螺
Dao vọng Động Đình Sơn thủy thúy, Bạch ngân bàn lý nhất thanh loa.
Truyền thuyết, huyền thoại.
Đảo có không biết bao nhiêu là truyền thuyết, huyền thoại, giai thoại. Nổi bật nhất là những truyền thuyết có liên hệ với Long Vương:
Đền Động Đình.
Theo truyền thuyết có một vị Vua Rồng sống dưới đáy hồ. Đền thờ vị Long Vương này rất uy nghi .
Giếng Liễu Nghị là đường xuống thủy cung của Long Vương.
Giếng Liễu Nghị nguyên gốc gọi là giếngCam ,được xây cất đầu tiên vào thời nhà Tùy. Truyền thuyết kể rằng một sĩ tử ở Hồ Nam tên là Liu Mingying trên đường về thủ đô đi thi gặp nàng con gái Long Vương. Nàng bị một người giầu có tên là Jin Baiwan hành hạ bắt đi chăn cừu. Liu giúp nàng. Nàng chỉ cho Liêu dùng giếng Cây Cam xuống gặp Long Vương và đưa thư của nàng cho Long Vương. Long Vương cứu con gái và nhận chết chìm Jin Baiwan. Về sau Liu lấy con gái Long Vương. Câu chuyện về sau được Li Zhaowei viết thành truyền thuyết và phổ biến rộng dãi trong dân gian, trở thành một trong sáu câu chuyện dân gian nổi tiếng của Trung Hoa. Tới thời nhà Tống, giếng được đổi tên là Giếng Liễu Nghị. Ngày nay được xem là một di sản văn hóa.
Giếng Liễu Nghị nguyên gốc gọi là giếng
Những truyền thuyết khác liên hệ với các vị thần ở đảo Quân Sơn và Hồ Động Đình như:
Đền Tương Phi .Hình trang trí trên nóc nhà của lầu vào đời Đừơng, đời Tống có hình con cá (có lẽ là loài cá anh vũ, một loại cá chép là loài cá có thể hóa long, đã thể điệu hóa, thần thoại hóa chút ít). Thoạt khởi thủy, con người dùng các loài vật có trong thiên nhiên làm vật tổ nên rắn nước, cá (chép) biểu tượng cho nước, cõi nước, hạ thế. Về sau theo dòng văn minh, con người thần thoại hóa, linh vật hóa các vật tổ, vật thờ thiên nhiên thành các linh vật. Rắn, cá chép hóa rồng vì thế mà tới đời nhà Thanh, hình tượng ở đầu mái lầu đã có hình rồng.
Tuy nhiên để ý con rồng ở đây thân và đuôi có móc sóng cuộn, đầu còn mang hình ảnh đầu cá, sừng rất nhỏ mang âm tính cho thấy rồng này là rồng nước. Điểm này ăn khớp với khuôn mặt âm, nước của Long Vương, vua Hồ Động Đình.
Cũng nên biết Động Đình Hồ là nơi tu luyện, ẩn dật của các đạo sĩ Đạo Giáo Thần Tiên.
Động Đình Hồ
Là đất Gốc Tổ của Đạo Giáo Thần Tiên.
Nền văn hóa ở đây ảnh hưởng nhiều về thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ quan của Đạo Giáo (hình đĩa thái cực được cho là của Đạo Giáo). Vì thế các lầu ở các đời sau cũng thấy có các kiến trúc của hình quả bầu ở trên nóc (trong kiến trúc, quả bầu nhìn dưới dạng nhất thể có một khuôn mặt là đĩa thái cực). Ta đã biết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, khởi đầu từ bầu hư vô, bầu vũ trụ, bầu tạo hóa, bầu tạo sinh, được diễn tả trong kiến trúc bằng hình quả bầu. Khi thấy một kiến trúc tín ngưỡng, thờ phượng nào trên nóc có hình quả bầu thì biết ngay kiến trúc đó theo hay bị ảnh hưởng bởi Vũ Trụ giáo (xem bài viết Vũ Trụ giáo).
Như đã nói Hồ Động Đình là chỗ Thần Tiên mà bất cứ một văn nhân thi sĩ Trung Hoa nào cũng mơ ước được đặt chân tới viếng thăm. Lầu Nhạc Dương là lầu thơ phú, văn chương. Ngày nay ở đây có một hành lang những bia đá khắc thơ. Những bia đá ghi lại các bài thơ của các lãnh tụ Trung Hoa làm tại đây, tiếp đến là những bài thơ cổ nổi tiếng của các thí bá, thi hào, thi thánh, thi tiên của Trung Hoa như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị… rồi tới của các nhà thơ hiện đại và cuối cùng khắc ghi các điều nói về Lầu Nhạc Dương.
Tiêu biểu chỉ xin nêu ra đây một ví dụ. Đó là bài thơ tuyệt tác Đăng Nhạc Dương lâu của thi thánh Đỗ Phủ:
Sau đây là phần chuyển qua Hán Việt, Việt ngữ và ghi chú của anh Nhạn Nam Phi Đỗ Ngọc Thành:
《登岳阳楼》杜甫 Đăng Nhạc Dương Lầu Đỗ Phủ
昔闻洞庭水. 今上岳阳楼. Tích Văn Động Đình Thủy, Kim thượng Nhạc Dương Lầu.
吴楚东南坼. 乾坤日夜浮. Ngô sở đông nam tách, Càn khôn nhật dạ phù.
亲朋无一字. 老病有孤舟. Thân bằng vô nhất tự, Lảo bệnh hữu cô châu.
戎马关山北. 凭轩涕泗流. Nhung Mã quan sơn bắc, Bằng hiên thế tứ lưu.
Lên Lầu Nhạc Dương: 登岳阳楼 ( Đỗ Phủ-杜甫)
昔闻洞庭水. 今上岳阳楼. Xưa nghe Động Đình Thủy, nay lên Lầu Nhạc Dương.
吴楚东南坼. 乾坤日夜浮. Ngô Sở Đông Nam tách, Càn khôn đêm ngày trôi.
亲朋无一字. 老病有孤舟. Thân hữu không một chữ, già bệnh chỉ xuồng côi
戎马关山北. 凭轩涕泗流. Nhung Mã quan sơn Bắc, Bên hiên giọt lụy rơi.
* Bài thơ này tả cảnh và tâm sự khi lên lầu Nhạc Dương, Đỗ Phủ là quan Văn của đời nhà Đường, nhầm lúc loạn An-Lộc-San, chiến tranh ly loạn, ngắm nhìn đầm nước Động Đình mêng mông mà cảm khái cho thân phận người sống trong thời loạn, không tin tức của bạn bè, ngựa đi quan Bắc hay thuyền đi Động Đình…chỉ cô đơn như chiếc xuồng đơn côi giữa dòng nước cuộc đời, Sở và Ngô là hai nước Đông với Tây ngày xưa cùng chung biên giới và Động Đình Hồ rất lớn, lớn đến nỗi tách chia Ngô và Sở ra làm hai một cách rõ ràng!
Lầu này được xây vào nằm thứ 48 (1776) đời Càn Long nhà Thanh dựa theo truyền thuyết tiên ông Lữ Đồng Tân hay Lã Đồng Tân, một trong 8 Vị Tiên đã say sưa tại Lầu Nhạc Dương 3 lần
Trong tranh có bài thơ. Bài thơ không có đề tựa, anh Đỗ Ngọc Thành đặt tên là Tiên Bay và chuyển qua Hán Việt, Việt ngữ và giải thích như sau:
朝游北越暮蒼梧. Triêu Du Bắc Việt Mộ Thương ngô, / Sáng Du Bắc Việt Chiều Thương Ngô,
袖里青蛇膽氣粗, Tụ Lí thanh Xà đảm khí thô. / Rắn xanh trong tay áo mệt khô.
三醉岳陽人不識. Tam Túy Nhạc Dương nhân bất thức, / Ba say Nhạc Dương ai mà biết,
朗吟飛過洞庭湖. Lãng Ngâm phi quá Động Đình Hồ. / Lãng Ngâm bay qua Động Đình Hồ.
(bài thơ được phiên dịch “Nôm” cố sao cho sát nghĩa mà vẫn gói gọn trong câu 7 chữ, nên không đúng luật “Đối” và bằng trắc của thể thất ngôn tứ tuyệt).
Bài thơ này có một chứng tích của cổ sử Đại Tộc Việt.”. Vùng Động Đình Hồ ở giữa Hồ Bắc và Hồ Nam của nước Sở. Câu thơ “sáng du Bắc Việt chiều Thương Ngô” (朝游北越暮蒼梧, Triêu Du Bắc Việt Mộ Thương Ngô, Thương Ngô - 蒼梧 là một tên gọi khác của nước Sở, đó là “địa danh” ở phía Nam của Bắc Việt) cho thấy rõ ràng “Sở” là “Việt (xem Hồ Động Đình Và Truyền Thuyết Việt).
Đình ngày nay được xây lại vào năm 1867. Rõ ràng là có tiên hiện ra ở Hồ Động Đình. Đất Hồ Động Đình là đất củaTổ của Đạo Giáo, của Thần Tiên. Dĩ nhiên đình này là nơi say sưa của các tiên ông phái Lưu Linh.
Ngoài ra còn có tiên Mai đình, đền Tưởng Nhớ Phạm Trọng Yêm và Đằng Tử Kính
Ngoài tứ linh Long Ly Qui Phượng còn thấy những thú biểu không thấy ở những nơi khác và được diễn tả một cách rất thi vị hơn:
Lân cho con bú.Hươu chổng mông nhìn trời.
Hươu là thú chủ của linh thú nghê hay kì (trong cặp kì lân), linh vật biểu tượng.
Thỏ biểu tượng cho mặt trăng, một khuôn mặt của Lạc Long Quân, ngành nòng âm nước Thần Nông, Long Vương.
Voi .Điểm này cho thấy ngày xưa ở đây có voi. Thật vậy, một phần đất của Hồ Nam thời nhà Tần thuộc về Tượng Quận.
Ngồi đây để thấy những dầu vết của truyền thuyết và cổ sử Đại Tộc Việt hãy còn bao nhiêu là chứng tích hiện hữu ở nơi này
Hồn thơ trổi dậy dạt dào, lâu lắm rồi không làm thơ. Nhưng chiều nay, bên Hồ Động Đình, cội nguồn của Đại Tộc Việt, tôi lại thấy say say trong men thơ.
Ghi vội mấy vần thơ, để rồi trên đường về sẽ chuốt lại:
Chiều nay mang đầy hồn huyền thoại,
Ta xuôi dòng rêu phong truyền thuyết,
Về thăm Động Đình hồ,
Nơi cội nguồn tộc Việt.
Hồ Động Đình. Động Đình Hồ.
Diễm ảo thu sắc,Vẽ tranh hồ huyễn hoặc.
Khói sương thu thủy mạc huyền mơ.
Ven bờ,Rừng chổi cờ lau sậy,
Theo gió thu phe phẩy quét sương mờ.
Mặt hồ ẩn hiện,
Mênh mông. Mênh mông. Mênh mông.
Bao la như biển vũ trụ.
Núi Động Đình, mây phủ.
Mây gối mây bềnh bồng.
Như Núi Trụ Trời chống đỡ hư không.
Nước, đất, trời dựng cảnh thiên thai,
Nước, đất, trời dựng cảnh bồng lai.
Văng vẳng nghe bên tai,
Trong gió thu,
Gió Động Đình mẹ ru con ngủ,
Ru hời, à à ơi,
Ngày xửa ngày xưa, thời vừa sáng thế,
Kì Dương Vương, Vua Người Mặt Trời Xích Quỉ,
Xuống thủy cung,
Kết duyên cùng Thần Long,
Con gái Vua Rồng Động Đình Quân.
Sinh ra Sùng Lãm, vương hiệu Lạc Long Quân.
Linh khí âm dương hòa hợp,
Rồng Lạc Long và Chim Âu Cơ thành vợ thành chồng.
Cha Nước Biển, Mẹ Lửa Non,
Hôn phối âm dương thành bầu Trứng Vũ Trụ, càn khôn.
Đẻ ra bọc Trứng Thế Gian,
Sinh ra trăm Lang ngành mặt trời,
Nòi Mẹ chim, năm mươi người lên núi,
Dòng Cha rắn, năm mươi người xuống biển ngàn khơi.
Dựng nên triều Hùng Vương,
Dòng vua thái dương rạng ngời.
Tổ tiên Người Mặt Trời Bách Việt.
Biên cương nước Văn Lang.
Phía Bắc tới Hồ Động Đình,
Tới tận dòng Trường Giang,
Phia Tây giáp Tứ Xuyên Ba Thục,
Phía Đông giáp Nam Hải,
Phía Nam xuống mãi tận Hồ Tôn Chiêm Thành.
Ôi Bách Việt một thời hùng anh!
Chiều nay mang đầy hồn huyền thoại,
Ta xuôi dòng rêu phong truyền thuyết,
Về thăm Động Đình hồ,
Nơi cội nguồn tộc Việt.
Mà thấy tả tơi trong lòng,
Mà thấy nước mắt hoen tròng,
Việt Nam ơi! Hỡi Việt Nam ơi!
Hỡi dòng giống Việt Mặt Trời,
Dòng giống hào hùng oanh liệt,
Hãy bảo tồn truyền thống Việt,
Muôn năm còn mãi rạng ngời.
Biết chắc rằng bài thơ này không thể nào được khắc để lưu lại tại đây, tôi thả những câu thơ làm tại đây xuống Hồ Động Đình.
Nguồn: Http://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/
-------------------o0o----------------------
Ảnh Hồ Động Đình
(Nguồn ảnh của Đạo GiáoThần Tiên)
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Hồ Động Đình – Đạo Giáo Việt Nam
Động Đình Hồ – Đạo Giáo Thần Tiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét