越南神仙THẦN TIÊN VIỆT NAM |
VSCM Lê Sáng
|
Sự sống bao gồm hoạt động và nghỉ ngơi. Các xúc động tâm lý, những căng thẳng thần kinh sẽ gây sự cản trở hoạt động và nghỉ ngơi. Không phát huy được khả năng, thiếu bền bỉ dẻo dai, không sáng suốt nhận định đều do những căng thẳng, những xúc động gây ra. Hoạt động như vậy khó đạt được hiệu quả. Thân xác không hoạt động, trong lòng lại đầy những tính toán lo âu, là nghỉ ngơi không trọn vẹn, sinh lực chẳng được phục hồi. Hoạt động nghỉ ngơi như vậy, cuộc sống của ta khó có an vui hạnh phúc. Qua thực nghiệm, người xưa đã tìm ra và khoa học ngày nay đã công nhận: với sự luyện tập khí công, nhịp tim sẽ được điều hòa để bộ máy tâm sinh lý được cân bằng ổn dịnh. Chỉ trong cân bằng ổn định, sự hoạt động nghỉ ngơi mới được trọn vẹn.
Khí
công gồm hai phần: Tĩnh luyện và động luyện.
Khí Công Tĩnh Luyện có thể tập ở hai tư thế: Ngồi
hoặc nằm.
Trong
tư thế ngồi,
ta xếp bằng hoặc cài chéo hai chân vào nhau, hai bàn tay úp xuống đùi, cánh
tay ép vào lườn, xương sống thẳng để khí huyết dễ luân lưu, mắt nhắm chủ tâm
vào tam tinh là vùng giữa hai chân mày, đối chiếu với não, đó là vùng suy
nghĩ của não bộ. Chủ tâm vào vùng này khi luyện khí, lâu ngày ta sẽ làm chủ
đươc tư tưởng của mình và có khả năng tập trung tư tưởng cao.
Trong
tư thế nằm,
ta nằm ngửa, hai tay để xuôi theo thân, bàn tay úp, mắt nhắm, chú tâm vào
vùng rốn. Chú tâm vào vùng này khi nằm luyện khí, huyết sẽ dồn xuống bụng làm
thần kinh bớt căng thẳng. Nhờ vậy ta dễ đi vào giấc ngủ và có giấc ngủ êm
sâu.
Tập
khí ở
hai tư thế này, mắt phải nhắm lại, môi khép kín, lưỡi co lên hàm trên để kích
thích sự hoạt động của tuyến nước miếng là phương dược trong cơ thể con người
giúp chận bớt các chứng sưng gan, tim lớn và ngăn chận được các
chứng loét bao tử, thực quản.
Khí Công Động Luyện: Nhu khí công quyền. Thí dụ: bài
Nhu khí công quyền 1 với lối thở hai thì của Việt Võ Đạo.
Như
tên gọi đây là bài tập kết hợp hơi thở với các động tác co duỗi của tay, di
động của chân với sự làm mềm tối đa các cơ bắp khi vận động. Nếu
dày công tập luyện sẽ có khả năng làm chủ tâm ý, biết giảm bớt căng thẳng từ
đó sẽ có sự sáng suốt, bền bỉ dẻo dai khi hoạt động, khi làm việc tay chân
hoặc trí óc. Lúc luyện tập các bài nhu khí, phải chú tâm vào các động tác để
cảm nhận được sự co duỗi của các cơ bắp, môi khép, lưỡi để tự nhiên, hít thở
bằng mũi, hơi thở ăn nhịp với động tác, chú ý làm mềm các cơ vùng mặt và cơ
bàn tay dể có; sự nhẹ nhàng thư thái trong tâm khí vận động.
Tập
khí công là tập thở bằng bụng: Hít vào phình bụng lên, thở ra thóp bụng lại.
Hít
thở bằng mũi. Hơi dài ngắn tùy sức, nhưng phải êm nhẹ, thời gian vào ra của
hơi thở bằng nhau. Đây là phương pháp khí công tu dưỡng nên ngoài các cơ bắp
giúp vùng bụng phình lên, hóp lại giúp tay chân chuyển động các cơ bắp khác,
nhất là các cơ bắp vùng mặt và cơ bản tay phải làm mềm tối đa.
Để
đáp ứng nhu cầu hoạt động nghỉ ngơi của con người, như đã trình bày, khí công
gồm hai phần: động luyện và tĩnh luyện. Dù động hay tĩnh đều có thể cương
hoặc nhu luyện. Khí công cương luyện là hít thở kết hợp sự căng cứng toàn bộ
hay từng phần cơ bắp. Và sự tập trung cao độ của thần kinh vào vùng cơ bắp
căng cứng. Đó là dùng lực để vận khí và phương pháp này tạo sức mạnh về thần
chất cho người tập luyện. Khí công nhu luyện là hít thở đi đôi với sự làm mềm
các cơ bắp, tạo êm dịu cho hệ thần kinh. Các cơ bắp khi ở trạng thái mềm tối
đa, cơ thể con người được nghỉ ngơi trọn vẹn và sinh lực được mau chóng phục
hồi. Khí công nhu luyện giúp người tập có một nhịp tim điều hòa, một hệ thần
kinh ổn định, sự điềm tĩnh nhu hoà sẽ đến. Đó là sức mạnh tinh thần.
Khi
luyện khí phải biết kết hợp cả động lẫn tĩnh, cả cương lẫn nhu. Tuy nhiên nếp
sống ngày nay đã khiến mọi người đã quá hoạt động, gây ra quá nhiều sự căng
thẳng về thần kinh nên cách tập thích hợp nhất cho mọi người là dù động hay
tĩnh nên nhu luyện nhiều hơn để tái luyện cân bằng.
Có
người nhờ luyện khí đã có những khả năng phi thường. Đó là trường hợp ít có.
Những người này ngoài căn cốt đặc biệt còn phải trải qua một thời gian dài
dồn toàn bộ tâm sức để luyện tập với các phương pháp vượt khỏi sức chịu đựng
của mọi người. Cũng có những khả năng phi thường tự nhiên xuất hiện ở một số
người. Khả năng siêu nhiên chính là tiềm năng của con người, có thể do tập
luyện, cũng có thể do tự nhiên xuất hiện. Đây không phải là hiện tượng phổ
biến.
Có
nhiều lối luyện khí:
Các
lối thở này, với sự điều chỉnh hơi thở ra vô, êm nhẹ, từ từ, dài lâu, giúp
người tập có khả năng điều chỉnh được nhịp tim, chịu đựng được các tình trạng
thiếu oxy hoặc tăng nồng độ carbonic trong máu, từ đó bắt buộc hệ thần kinh
điều chỉnh cho thích nghi, tạo sức đề kháng để cơ thể có thể chống lại mọi
thay đổi đột ngột của môi trường.
Khi
tập thở, hơi thở ra vô dài ngắn, tùy theo sức chịu đựng của mỗi người. Kiên
nhẫn tập luyện, hơi thở sẽ trở nên êm nhẹ, lâu dài, thong thả, nhịp thở ra vô
sẽ đều nhau, nhịp tim được điều hòa, hoạt động của bộ máy tâm sinh lý sẽ cân
bằng ổn định. Sự cân bằng này được biểu lộ qua tác phong điềm tĩnh nhu hòa,
vô cầu.
Khi
đã có sự cân bằng này rồi, nếu muốn, ta có thể luyện qua hơi thở ba thì, bốn
thì.
Chỉ
trong hoạt động, ta mới phải nín thở lấy sức, còn bình thường, lối thở hai
thì là lối thở tự nhiên của mọi người. Ai cũng hít thở nhưng nếu không luyện
khí, sự hít thở sẽ không hoàn chỉnh. Sự hít thở gọi là hoàn chỉnh khi cả lúc
động cũng như cả lúc tĩnh hơi thở ra vô lúc nào cũng nhẹ êm, sâu dài, thong
thả. Luyện khí ở tư thế nhu tĩnh, ta dễ chuyên chú vào khí để hoàn thiện, dễ
làm chủ hơi thở của chính mình. Nhờ tập nhu khí ở tư thế tĩnh, ta sẽ dễ phát
huy được công năng của các bào nhu khí, cương khí đối với bản thân khi luyện
tập. Đó là sự kết hợp giữa động và tĩnh trong luyện khí. Nếu chuyên luyện nhu
khí, sự trẻ trung tươi mát, sự bền bỉ dẻo dai, sự hồn nhiên vô tư, sự hiền
hòa từ tốn, sự bao dung độ lượng sẽ đến với ta. Đây chính là cái đẹp bên
ngoài của tinh thần Nhân Võ Đạo.
Vận
động với nhịp độ nhanh, cường độ mạnh, cần tăng cường hô hấp nên đôi khi phải
thở ra bằng miệng mới kịp. Tuy nhiên tốt nhất ta nên hít thở bằng mũi. Có
những lý do sau đây:
-
Mũi là bộ máy điều hòa không khí của cơ thể. Với những nếp gấp ở hốc mũi,
không khí hít vào được tẩy bụi, hấp nóng, có khi lại được tiếp hơi ấm để đủ
điều kiện cần thiết trước khi vào phổi. Hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng,
mũi do hô hấp nóng không khí hít vào, nhiệt độ bị giảm dần, sẽ bị lạnh. Điều
này có thể gây sổ mũi hoặc sưng cuống phổi. Nếu thở ra bằng mũi hơi thở sẽ
hoàn lại chất nhiệt cho mũi và như thế lại giúp nó làm tròn vai trò điều hoà
không khí hít vào.
-
Mũi có vai trò làm điều tiết lưu lượng không khí hít vào, thở ra và làm giảm
tốc quá trình hô hấp. Hít vào bằng miệng, lẽ tất nhiên ta đưa nhanh chóng vào
phổi một lượng lớn không khí và như thế dễ làm tổn thương nhiều phế nang tế
nhị. Vả lại, nên hiểu rằng khi hít vào, phổi vừa hấp thụ không khí lẫn máu
theo một tỷ lệ nhất định để giữ vững cân bằng cho môi trường bên trong. Thở
bằng miệng thường làm thay đổi tỷ lệ đó và làm mất cân bằng cơ chế hô hấp vốn
rất tinh tế. Thở bằng miệng chỉ áp dụng trong trường hợp khẩn cấp do cơ thể
đòi hỏi.
-
Những nếp gấp trong mũi được phủ dầy đầy dây thần kinh có mắc nối với nhiều
cơ quan và các trọng tâm thần kinh. Gặp người bị ngất, cho họ ngửi amoniac
hoặc giấm chua, họ có thể tỉnh ngay. Cơ thể con người cũng cần được kích
thích bởi luồng không khí qua mũi.
Trong
cơ thể con người, mạch là những ống dẫn huyết từ tim chạy ra khắp châu thân
và ngược lại. Theo Đông y, ngoài mạch máu ra, còn có hệ thống kinh lạc. Kinh
là những đường dây nối liền các huyệt trong châu thân theo một hàng dọc và
lạc là những đường nối liền từ kinh nọ sang kinh kia, chạy theo hàng ngang.
Có hai kinh chính là Nhâm Kinh và Đốc Kinh. Nhâm Kinh là đường kinh nối liền
từ chỗ lõm ở môi dưới chạy thẳng xuống, qua lằn chỉ ở dịch hoàn đến hậu môn.
Đốc kinh là đường kinh chạy từ đỉnh xương cùng lên đến đỉnh đầu trỏ ra trước
mặt vượt qua rãnh dưới đầu mũi tới nuớu răng hàm trên. Khi luyện khí, hai môi
nên khép lại cho Nhâm Kinh và Đốc Kinh được nối liền với nhau để khí dễ luân
lưu. Ngoài ra, lưỡi co lên, chạm dốc giọng để kích thích sự hoạt động của các
tuyến nước bọt. Theo y học thì nước miếng là phương thần dược trong cơ thể
con người, có thể trị các chứng sưng gan: tim lớn, làm thần kinh mát dịu,
nhất là những chứng lở loét bao tử thực quản. Chúng ta cũng thường thấy rằng
một cái dàm hay xương cá chích vào chân răng, lưỡi miệng, chỉ trong hai, ba
tiếng đồng hồ không nghe đau nhức nữa. Nếu da thịt bị như thế, ít nhất hai ba
hôm mới hết, có khi lại lở thành mụn nữa.
Tập
khí công là tập thở bằng bụng dưới hít vào, phình bụng, thở ra, hóp bụng, để
kích thích vùng đan điền. Đông Y quan niệm đó là nơi tích tụ sinh lực của con
người và khoa học ngày nay coi đó là vùng trọng tâm của thân thể. Khi kích
thích đúng mức, sinh lực sẽ được phát huy. Nói cách khác, khi trọng tâm con
người, do tập luyện trở về vị trí đan điền, tâm sinh lý được cân bằng. Trong
trạng thái cân bằng, sinh lực sẽ được phát huy toàn vẹn. Nếu đã nắm vững hệ
thống kinh mạch, ta có thể dùng tư tưởng để dẫn khí. Tuy nhiên, dùng ý dẫn
khí sẽ sinh tâm lý nóng vội vì muốn mau chóng thành công, như vậy dễ đi đến
tình trạng thái quá, dễ gây căng thẳng cho hệ thần kinh, hệ tim mạch bị loạn
nhịp. Sinh lý bị xáo trộn do luyện khí, người xưa gọi là "tẩu hỏa nhập
ma". Cách tập an toàn nhất cho tất cả mỗi người là tập với lòng thanh
thản vô cầu, không dùng ý dẫn khí, chỉ thư giãn tối đa, tùy cơ thể tập; chú
tâm vào từng vùng nào đó. Thí dụ: tập khí ở tư thế tĩnh tọa, chú tâm vào vùng
giữa hai chân mày, ở tư thế nằm, chú tâm vào vùng rốn. Khi thở đúng mức, khai
thông được hai kinh Nhâm, Đốc, luồng khí sẽ chu lưu khắp cơ thể theo hệ thống
kinh lạc. Khi hít thở, dưỡng khí qua phế nang được máu hấp thụ, theo động
mạch đi đến các cơ quan. Khi di chuyển theo đường kinh lạc là một thứ khí
khác, người xưa gọi là: chân khí, tiên thiên khí, khí thái hư... Hấp thụ được luồng khí này, con người
sẽ phát triển được các phẩm tính thanh cao, hướng thượng. Người tập có khả
năng điều khí tốt khai thông được Nhâm Đốc Kinh, thì các bài nhu khí, cương
khí sẽ giúp thúc đẩy, dẫn khí ra tứ chi. Khai thông kinh lạc là bước đầu của
lĩnh vực khí công.
Tập
khí công phải biết phối hợp giữa động với tĩnh, giữa cương với nhu, và đó là
nguyên lý Cương Nhu Phối Triển của Vovinam-Việt Võ Đạo.
|
Khí Công Bài Một - Khái
Lược về Khí Công
|
|
GS. Ngô Gia Hy - VS. Trần Huy Phong
(1993)
|
|
Giáo
sư Ngô Gia Hy: Đã mấy chục năm qua, tôi và võ sư Trần Huy Phong từng
có "duyên nợ" với nhau: đầu thập niên 70 chúng tôi cùng tham gia
"Ủy Ban Vận Động Dựng Đền Quốc Tổ" và cùng chủ trương thành lập tại
Saigon một Đại Học Tư Thục nhằm mục đích phục vụ cho lý tưởng giáo dục. Hiện
nay tôi và võ sư Phong cùng với các giáo sư khác đứng ra thành lập Đại Học Tư
Thục Hùng Vương tại Sài gòn.
Võ
sư Phong là một võ sư cao cấp của Môn Phái Vovinam-Việt Võ Đạo, là một bậc
thầy về Khí Công của Môn Phái này. Tôi rất quan tâm và mến mộ các môn võ
thuật, đặc biệt là môn Vovinam-Việt Võ Đạo, với võ sư Phong là một người có
Tâm Chất thể hiện rõ nét Tinh Thần Võ Đạo Việt Nam. Nay tôi và võ sư Phong
cùng biên soạn Tài Liệu Khí Công này nhằm giúp các bạn trẻ tham khảo và thực
tập. Rất mong được sự góp ý của các độc giả xa gần.
Định Nghĩa
Khí
là nguồn năng lực sống của con người. Khí luân lưu trong khắp cơ thể theo các
đường Kinh mạch vào Lục phủ ngũ tạng. Khí biểu hiện dưới cả hai dạng vật chất
và tinh thần, nhưng mắt ta không nhìn thấy được (không được lầm lẫn giữa Khí
và Không Khí. Không khí là khí trời, là phương tiện để ta hô hấp trong lúc
luyện Khí.)
Mỗi
người sinh ra đều mang trong cơ thể một lượng khí nhất định, nhiều ít tuỳ
theo từng người. Đó là Khí trời cho, tức Khí thụ hưởng từ cha mẹ, còn gọi là Tiên Thiên Khí hay Khí Bẩm
Sinh. Ngoài Tiên Thiên Khí, hàng ngày con người còn tiếp thụ một lượng Khí từ
bên ngoài vào cơ thể mình xuyên qua đồ ăn thức uống, không khí, ánh sáng, vũ
trụ tuyến và môi trường sống nói chung. Loại khí này gọi là Hậu Thiên Khí (tức Khí Có
Sau).
Khí
Công: là công phu tập luyện để điều hòa, phát huy tích luỹ và sử dụng hai
loại khí nói trên. Hai loại khí ấy phối hợp và cộng hưởng với nhau làm thành
Chân Khí. Chân Khí thịnh thì người khỏe, khi suy thì người yếu, khi rối thì
người bệnh, khi kiệt thì người chết.
Có
thể nói, Khí Công là gốc của các phái võ Nội Gia, là căn cốt của mọi phương
pháp dưỡng sinh Đông Á. Hình thành từ các Phép Đạo Dẫn của Đạo Gia, phối hợp với Môn
Phái Thiền Tông Đạt Ma Sư Tổ, Khí Công triển khai qua dịch học đã trở nên rất
phong phú và mỗi ngày một phát triển nhất là dựa vào Y học hiện đại. Lấy
nguyên lý Quân Bình Âm Dương, Điều Hòa Ngũ Hành làm căn bản trong luyện khí.
Khí Công làm gia tăng nội lực, một mục tiêu mà mọi Võ Gia đều mong muốn. Lại
nữa, cũng trên căn bản này, các Võ Gia còn có thể tự trị bệnh và hơn thế, trị
bệnh cho người khác, thể hiện Tinh Thần của Võ Đạo.
Phương
pháp luyện tập Khí Công không khó, nhưng muốn luyện tập Khí Công thành tựu
thì phải có quyết tâm cao và tốn nhiều công phu. Cũng ví như cách học làm
thơ, cách chơi các nhạc cụ thì không khó nhưng muốn trở thành một thi sĩ, một
nhạc sĩ có tài thì khó hơn. Chính vì vậy có người nói muốn luyện thành Khí Công
thì phải có "cơ duyên". Nhưng điều chắc chắn là bất cứ ai nếu yêu
thích Khí Công và kiên trì luyện tập theo đúng phương pháp thì cũng sẽ đạt
được một kết quả nhất định, đủ để giúp cho thân thể kháng kiện, kịch phát
năng lực bản thân, điều trị được nhiều loại bệnh tật của chính mình và của
người khác như các loại bệnh về Tim mạch - Thần Kinh - Tê Thấp - Thận Suy -
Các loại bệnh về hô hấp, tiêu hóa, các loại bệnh liên quan đến cột sống
v.v... Tập Khí Công còn làm gia tăng tuổi thọ. Đối với các võ sinh luyện Khí
Công còn tích lũy nội lực, tập trung tâm ý, ngõ hầu phát huy tối đa hiệu quả
của đòn thế.
Kỷ Thuật Luyện Khí
Các
phương pháp luyện khí thay đổi tùy theo các Trường Phái. Đại để có năm Trường
Phái chính: Đạo Gia
- Phật Gia - Y Gia - Võ Gia
1. Phương pháp của Đạo Gia chủ yếu tạo sự
kháng kiện cả thể xác và tâm hồn. Phương pháp này dạy cách phát triển trau
dồi Tâm Chất và sự sống. Nghĩa là nhấn mạnh cả về hai mặt: luyện tập và suy
tưởng.
2. Phương pháp của
Phật Gia đặt nặng về sự điều hòa phần Tâm, tức là gạt bỏ mọi tạp niệm để đầu
óc trống rỗng, tiến đến giác ngộ.
3. Phương pháp của
Khổng Gia lại nêu ra những "Nguyên Tắc Của Tâm Hồn!" Sự chân chính
và sự rèn luyện các đức tính. Đưa người tập vào trạng thái nghỉ ngơi, an bình
và yên tĩnh.
4. Phương pháp của Y
Gia chủ trương dùng Khí Công để điều trị bệnh tật, bảo dưỡng sức khỏe và kéo
dài tuổi thọ.
5. Phương pháp của Võ
Gia nhằm xây dựng sức mạnh cá nhân, biết chấn tĩnh tinh thần khi bị tấn công
hoặc để công kích địch thủ. Mặc dầu phương pháp này cũng có chức năng bảo vệ
sức khỏe và nâng cao tuổi thọ nhưng nó khác hẳn với các Trường Phái nói trên.
Tuy
các phương pháp của các Trường Phái có sự khác biệt nhưng chúng vẫn không nằm
ngoài ba nguyên tắc chính: Tĩnh Luyện, Động Luyện, và Tĩnh Động Luyện. Cả ba
nguyên tắc này đều có 3 mặt: Luyện Tâm (tức Điều Tâm), Luyện Thở (tức Điều
Tức) và Luyện Ngoại Hình (tức Điều Thân).
Bất
kể luyện tập theo phương pháp nào, nếu tập bền bỉ và đúng phép thì chắc chắn
sẽ đạt được một công phu đáng kể. Khí Công của Việt Võ Đạo tổng hợp các kinh
nghiệm của nhiều Trường Phái khác nhau, chủ yếu để luyện Tâm + Thân theo
nguyên lý "Cương Nhu Phối Triển." Cũng để tập trung sức mạnh của
TÂM THÂN trong tự vệ chiến đấu, điều trị bệnh tật và gia tăng tuổi thọ.
Phương
pháp Khí Công trong võ thuật còn gọi là: Nội Công. Nội Công là phương pháp
luyện tập những phần bên trong của cơ thể con người (không luyện cơ bắp như
thể dục thể thao). Luyện bên trong tức là phương pháp luyện để:
Muốn
"luyện bên trong" chủ yếu là phải vận dụng hơi thở. Thở đúng phương
pháp là cơ bản của việc luyện công. Thở tự nhiên hàng ngày là thở Vô Thức.
Thở Nội Công là thở Có Ý Thức. Thở chủ động theo phương pháp đã được nghiên
cứu công phu.
Cách Thở Nội Công:
A.
Thở Bụng: là cách thở chủ yếu, trong Nội Công gọi là "Thở Thuận".
a.
Trong khi luyện thở có thể Nằm - Ngồi - Đi - Đứng đều được cả, nhưng bao giờ
cũng phải giữ cho xương sống thật thẳng.
Dù
ở tư thế nào hai tay và hai vai đều buông lỏng thoải mái. Trước khi thở phải
gạt bỏ tạp niệm. Tập trung ý vào hơi thở.
Lưu
ý: chữ Khí dùng ở đây chỉ là Khí Trời, tức Hơi Thở, không phải là Chân Khí
như đã định nghĩa.
b.
Thực Hành
Một
vòng thở đủ bốn nhịp như thế gọi là Phép Thở 4 Thì.
Lưu
ý:
1. Cả 4 thì đều phải:
Êm, Nhẹ, Đều Đặn. Kết hợp co cơ và giãn cơ, nhưng giãn cơ là chính.
2. Tự điều hòa 4 nhịp
sao cho vừa phải để cảm thấy thoải mái, dễ chịu.
3. Nếu chỉ Nạp, Vận,
và Xả mà không Bế Khí Í thì đó là phép thở 3 thì. Nếu chỉ Nạp và Xả không
thôi thì đó là phép thở 2 thì. Các Đạo Gia thường áp dụng lối thở hai thì và
lấy thư giãn là chủ yếu.
4. Những người bị bệnh
do cao huyết áp, bệnh Tim mạch, bệnh Hen Suyễn chỉ nên thở 2 thì. Thở thật
đều, nhẹ và êm.
B.
Thở Ngực (Còn gọi là Thở Nghịch):
Phép
Thở Nghịch rất tốt cho Phế Nang Thượng, tạo sự cường tráng. Người mới tập thở
mỗi ngày nên chia làm nhiều lần, mỗi lần khoảng 5, 10 phút và thật đúng giờ,
trong tư thế Đi - Đứng - Ngồi - Nằm đều được cả.
Khi
đã thở quen, dần dần tăng thời gian tập lên. Những nhà Khí Công chuyên nghiệp
họ thở hầu như suốt ngày, dĩ nhiên trừ lúc ăn no, làm việc nặng, ngủ nghỉ.
Đây mới chỉ là những cách thở căn bản trong Khí Công. Thở đúng cách theo các
tư thế khác nhau là chúng ta bắt đầu bước vào con đường luyện tập Khí Công
hay Nội Công vậy.
|
Khí Công Bài Hai - Phương
Pháp Luyện Khí
|
03-14-2002
|
-- VS Trần Huy Phong
|
Lời
Tác Giả: Năm
1993, tôi có viết một bài "Khái Lược Về Khí Công" cùng với giáo sư
Ngô Gia Hy, đăng trong Đặc San Việt Võ Đạo nhân dịp kỷ niệm phái đoàn Pháp về
thăm Việt Nam. Đặc san này đã có phổ biến khá rộng rãi. Trước khi vào bài hai
"LUYỆN KHÍ", các bạn nên đọc lại bài "Khái Lược Về Khí
Công" để có sự hiểu thấu đáo hơn.
Khí
là nguồn năng lực sống của con người (vital energy). Có hai loại Khí: Khí Tiên Thiên do cha mẹ truyền
thụ, Khí Hậu Thiên do ta tiếp thụ qua dinh dưỡng và môi trường sống. Khí
luân lưu khắp cơ thể, qua các đường Kinh Mạch vào Lục phủ ngũ tạng. Khí biểu
hiện dưới cả hai dạng vật chất và tinh thần (các nhà khoa học đã dùng máy móc
để thí nghiệm và xác minh điều đó), nhưng với mắt thường ta không nhìn thấy
được. Không bao giờ được lầm lẫn Khí và Khí Trời (tức không khí), vì không
khí (air) chỉ là một trong những phương tiện, dùng để hô hấp trong khi Luyện
Khí. Võ lâm Trung Nguyên thường truyền tụng một câu nói rất nổi tiếng:
Lực
bất đả quyền
Quyền bất đả công Luyện vũ bất luyện công Đáo lão nhất trường không
Có
nghĩa là "người chỉ có sức khỏe không thôi thì không thể đánh người giỏi
quyền pháp, và người có quyền pháp không thắng được người có Khí Công. Tập võ
mà không luyện Khí Công thì khi về già sẽ không còn gì nữa".
Những Phương Pháp Thở Thông Thường
Để Chuẩn Bị Luyện Khí
Lưu
ý: Thở đúng phương pháp là phần cơ bản của việc luyện Công. Thở hàng ngày là
thở tự nhiên, thở vô thức. Thở Khí Công hay Nội Công là thở có ý thức, thở
theo phương pháp. Các bài thở thông thường này, chưa cần thiết phải áp dụng
những phương pháp Nhập Tĩnh, Thu Công.
Tư
Thế: Trong khi luyện thở, có thể Nằm - Ngồi - Đứng đều được cả, nhưng bao giờ
cũng phải cho đầu, cổ và xương sống thật thẳng thì Khí mới có thể lưu thông
được.
1. Nằm: trên một mặt
bằng và cứng (không nệm, không gối đầu), hai tay để úp, xuôi theo thân mình.
Hai chân duỗi thẳng, gót chân chạm nhau, mũi bàn chân ngả ra hai bên. Tư thế
nằm áp dụng cho những người sức khỏe quá yếu, hoặc những người thiếu máu,
không thể ngồi lâu được.
2. Ngồi: ngồi xếp bằng
theo lối bán già hay kiết già tùy ý, cũng có thể ngồi trên ghế, không dựa
lưng, hai chân để xuôi xuống sàn một cách tự nhiên, ngay ngắn, hai tay buông
xuôi xuống hoặc để trên hai bắp vế. Điều quan trọng là phải giữ cho đầu, cổ
xương sống xuống đến hậu môn ở trên một đường thẳng. Ngồi là tư thế đúng nhất
và tốt nhất cho việc Luyện KhíÍ.
3. Đứng: Hai chân đứng
song song, dang rộng khoảng 25cm, cho vững, hai tay buông xuôi theo thân
người, hai đầu gối hơi chùng xuống một chút, nặng ở hai gót chân, buông lỏng
hai vai. Tư thế đứng dùng để tập luyện nhiều động tác quan trọng.
Dù
ở tư thế nào, thân, vai, bụng đều buông lỏng, thoải mái. Trước khi thở phải
gạt bỏ hết mọi ý nghĩ, tập trung tinh thần vào hơi thở. Trước khi Luyện Khí
nên biết Thư Giãn. Không biết Thư Giãn thì kết quả Luyện Khí sẽ bị giới hạn
rất nhiều:
a. Thư giãn Cơ Bắp:
buông lỏng tất cả dường gân, thớ thịt: từ đầu ngón tay cho tới tứ chi, vai,
bụng và toàn thể thân người, coi như toàn thân mềm nhũn ra, không còn một
trương lực nào cả.
b. Thư giãn Tâm Thần:
để bộ não từ từ tan biến đi, không còn một ý thức nào nữa, không nghe, không
thấy, không biết gì nữa, cứ để tâm chìm vào hư vô... Mới đầu khó thực hiện,
nhưng sau sẽ quen dần.
Động
tác Thư Giãn sẽ giúp ta thấy nhẹ nhàng, khoan thai, dễ chịu sau những giờ làm
việc căng thẳng. Thư giãn thoải mái xong mới bắt đầu tập luyện.
I. Thở Bụng (còn gọi là thở Thuận):
1.
Phương pháp thở bụng 2 thời liên tục: ngồi bán già hay kiết già, hay ngồi
trên ghế hoặc đứng, hoặc nằm trên mặt phẳng và cứng, không gối đầu, mục đích
giữ cho đầu, cổ, lưng thật thẳng, hai tay buông xuôi.
a.
Nạp Khí: Từ từ hít hơi vào thẳng bụng dưới theo phương pháp: đều, nhẹ, êm,
sâu (khi đầy, bụng hơi phình ra).
b.
Xả Khí: ngay khi đó, từ từ thở ra cũng đều- nhẹ - êm và thở ra hết.
Ghi
chú quan trọng:
- Hít vào và thở ra đều bằng mũi. - Công thức: mới tập theo công thức 3-3 (nghĩa là hít vào trong 3 giây và thở ra cũng đúng 3 giây, nghĩa là thở 10 vòng trong 1 phút. Cách đếm: ba trăm lẻ một, ba trăm lẻ hai, ba trăm lẻ ba... cứ đếm đều đặn là rất đúng, nếu cần lấy đồng hồ ra căn lại cách đếm cho chính xác hơn), dù ta có thể tập dài hơn cũng đừng cố, phải tập ít nhất trong 3 tuần lễ mới có thể tăng dần.
Về
sau, khi đã tập luyện vững vàng rồi, ta có thể theo công thức: 5-5 (tức 5
vòng thở ra một phút) hoặc 6-6 (tức 6 vòng thở trong một phút).
Một người bình thường, thở trung bình 15 vòng trong 1 phút, nếu nay ta thở
chỉ còn 10 vòng/phút là đã khá tốt rồi.
So
sánh với nhịp thở của một loài động vật: gà mái 30 nhịp/phút, chó 28
nhịp/phút, mèo 24 nhịp/phút, ngựa 16 nhịp/phút, rùa 2 nhịp/phút. Nếu nhiều
công phu tập luyện, sau này ta có thể thở từ 2 nhịp hay 1 nhịp trong một phút
thì tuổi thọ của ta có thể tăng lên như loài rùa. Mặt khác, khi thở chậm,
nhịp tim cũng sẽ đập chậm lại và đều hơn. Giả thử nhịp tim đang từ 90 giảm
xuống 60 lần/phút, tức là tiết giảm được 30 lần/phút. Nếu tính trong một năm
thì sẽ tiết giảm được:
30
lần x 60 x 24 x 365 ngày = 15,768,000 lần. Tập đúng: thân thể tráng kiện, da
mặt hồng hào, sáng láng, mắt sáng, tinh thần thoải mái dễ chịu.
Tập
sai: Nồng độ CO2 trong máu quá cao, gây ra các triệu chứng dễ
nhức đỉnh đầu và vùng gáy. Tim bị hồi hộp, ăn không tiêu... gặp trường hợp
này, xả trong một tuần lễ sẽ khỏi (xem cách XẢ ở phần Thụ Công - đoạn chót
bài 4).
2.
Phương pháp thở bụng 3 thời: công thức 3-3-3 hoặc 4-4-4. Nghĩa là Nạp Khí
trong 3 giây. Sau đó dồn khí xuống Đan Điền (tức huyệt Khí Hải - cách lỗ rốn
khoảng từ 3 tới 4 cm), ngưng tụ khí tại đó trong 3 giây, làm cho đan điền
căng lên, đồng thời ta nhíu hậu môn và đường tiểu tiện lại. Sau đó, buông
lỏng tất cả và từ từ Xả Khí ra trong 3 giây, cho không khí ra
hết, xả xong lại tiếp tục Nạp Khí, thở cho vòng kế tiếp, liên tục không
ngừng. Sự ngưng tụ khí tại Đan Điền này rất quan trọng sẽ giải thích sau.
3.
Phương pháp thở bụng 4 thời: công thức 3-3-3-3 về sau khi thở đã quen có thể
áp dụng công thức 4-4-4-4 hoặc cao hơn nữa (nhưng đừng cố quá sẽ có hại!).
Nạp trong 3 giây, ngưng tụ tại Đan Điền trong 3 giây, nhíu hậu môn và đường
tiểu tiện lại, như nói ở đoạn trên. Sau đó buông lỏng tất cả, Xả (tức thở ra
nhẹ, đều, êm trong 3 giây cho hết không khí). Khi bụng đã xẹp hết hơi, ta Bế
Khí, tức là ngưng thở hoàn toàn, để bụng trống rỗng trong 3 giây... rồi lại
tiếp tục Nạp Khí cho vòng kế tiếp.
Ghi
chú: Việc thở phải điều hòa, liên tục, nhịp nhàng và bao giờ cũng phải Êm -
Nhẹ - Đều - Dài. Thở hấp tấp, vội vàng, cốt cho đủ số là hoàn toàn vô ích!
Nên
khai thác triệt để hơi thở trong ngày: nếu ta chỉ tập thở trong những buổi
chính thức theo đúng nghi thức, thì nhiều lắm, mỗi ngày, ta cũng chỉ tập được
hai buổi (mỗi buổi khoảng nửa giờ mà thôi) và tất nhiên kết quả chỉ có giới
hạn. Nhưng theo lối thở phổ thông trình bày ở trên, ta có thể thở bất cứ lúc
nào, bất cứ tại đâu, tại văn phòng, trong xưởng, trong phòng khách, tại nơi
đang làm việc v.v... Ta khai thác được rất nhiều dịp thở trong ngày mà những
người xung quanh không hay biết, theo kiểu "tích tiểu thành đại",
lâu dần thành thói quen. Càng thở nhiều càng thấy thoải mái dễ chịu không bị
mệt mỏi, căng thẳng, chán nản, mất tinh thần... Tất nhiên không nên thở lúc
ăn no, uống say hoặc lúc làm việc nặng.
II. Thở Ngực (còn gọi là thở nghịch):
Đây
là phương pháp thở phổ thông trong các môn thể thao, điền kinh của Tây
phương.
1.
Phương Pháp:
Khi
Nạp Khí, ta dồn không khí lên ngực trên, bụng sẽ thót lại. Lúc Xả Khí, ngực
sẽ xẹp xuống, bụng hơi phình ra. Phép thở nghịch tốt cho Phế Nang Thượng, làm
cho ngực nở nang, nhưng không hữu dụng cho phương pháp tập KHÍ CÔNG.
2.
Lý giải theo Y-học Tây phương:
Khi
ta tập các cơ bắp như tập tay, tập chân, tập cổ, tập ngực v.v... ta thường
dùng các dụng cụ như tạ, dây kéo, para fix, parallel, hoặc hít đất, nhẩy xổm,
bơi lội v.v... Nhưng nếu ta muốn tập các bộ phận bên trong như Tim, Gan, Tì,
Phế, Thận (ngũ tạng) hoặc Dạ Dầy, Mật, Bàng Quan, Tam Tiêu, Ruột Non, Ruột
Già (lục phủ)... nhất là các Kinh Mạch và Thần Kinh, thì chúng ta tập ra sao?
Người
xưa dạy ta tập bằng cách Thở Khí Công: khi ta Nạp không khí vào phần Hạ Phế
(phổi dưới) - nói là thở Bụng, nhưng thực tế, không bao giờ không khí có thể
vào thẳng bụng được. Không khí vào phần Phổi dưới, nó sẽ nở ra, đẩy Cơ Hoành
và Cơ Bụng xuống, làm cho Lục Phủ Ngũ Tạng bị ép nhẹ xuống. Khi ta Xả Khí, Cơ
Hoành và Cơ Bụng lại nâng Lục Phủ Ngũ Tạng lên. Như vậy, toàn bộ các cơ quan
trong người ta cứ liên tục bị nhồi lên, ép xuống một cách nhẹ nhàng, nhu
nhuyễn, như vậy các bộ phận bên trong của ta đã được "thoa bóp bằng hơi
một cách vô cùng êm ái". Nói cách khác, Lục Phủ Ngũ Tạng của ta đã được
tập luyện bằng những đệm hơi rất vi tế. Một khi các bộ phận trong người đã
được tập có phương pháp như thế thì tất nhiên chúng sẽ trở nên linh hoạt,
không bị u trệ và hoạt động tốt hơn, do đó Kinh Mạch của ta sẽ vận hành đều
hòa hơn. Mặt khác, vì phải tập trung tinh thần, không suy nghĩ vẩn vơ, điều
này sẽ giúp cho Thần Kinh của chúng ta vững vàng, Tâm không bị giao động, âm
dương được quân bình.
Tập
như thế, tức là Tập Bên Trong - Công Phu Tập Luyện Bên Trong- Tức là Tập Nội
Công vậy.
Ghi
chú: Nếu chịu khó tập Thở Nội Công liên tục đều dặn, sau 3 tháng sẽ có kết
quả cụ thể: người khỏe mạnh, năng động, vui tươi, giảm lượng đường trong máu,
giảm cholesterol, giảm huyết áp (nếu có), ăn uống, tiêu hóa tốt, sinh lý mạnh
và có thể chữa khỏi những chứng bệnh thông thường...
|
Khí Công Bài Ba - Luyện Khí
|
VS Trần Huy Phong
|
Lời mở đầu: Khí công có nhiều Nhà, nhiều Phái. Tại Trung Quốc
hiện có tới 3000 trung tâm đang học tập và nghiên cứu Khí Công và ít nhất
cũng có 18 Viện Đại Học đang dùng các phương pháp Khoa Học để nghiên cứu Khí
Công. Đại học Bắc Kinh, Thanh Hoa, Giao Đại... đã dùng máy phát tia hồng
ngoại đo được sự biến đổi nhiệt độ khi võ sư phát công. Các nhà bác học dùng
máy quang phổ tử ngoại đo độ kiềm của DNA và RNA, khi có tác động của KHÍ
CÔNG, đều thay đổi đến mức làm thay vật mẫu.
Trong
công nghiệp cần áp xuất hàng trăm Atmosphere và ở nhiệt độ 300 độ C để hỗn
hợp hydro với carbon, nhưng khi có tác động của Khí Công thì phản ứng có thể
xảy ra ở điều kiện 01 Atmosphere và 13 độ C. Tại đại học Đài Bắc, Giáo sư Lý
Tự Sầm, Chủ Nhiệm Khoa Học Điện Cơ đã dùng khoa học nghiên cứu được những
thành tựu cụ thể về môn Khí Công như có khả năng chữa được một số bệnh cho
người khác, ngay cả từ xa và ngược lại, võ sư cũng có thể dùng sát khí để
giết hại đối thủ từ xa...
Khí
Công của Vovinam-Việt Võ Đạo, tổng hợp kinh nghiệm của nhiều Trường Phái khác
nhau, nhưng có những nét đặc thù riêng, mục đích để luyện Tâm + Thân theo
nguyên lý Cương Nhu Phối Triển. Chủ yếu luyện Khí Công để Dưỡng sinh, bảo
kiện, tăng cường thể lực để tự chữa một số bệnh cho chính bản thân và nếu khá
hơn, có thể phát công để trị bệnh cho người khác. Đặc biệt là có khả năng tập
trung sức mạnh của Tâm Thân, áp dụng trong tự vệ và chiến đấu.
Tôi
đã dự định viết một cuốn "Nội Công Nhập Môn Việt Võ Đạo" từ mấy năm
trước, nhưng không may tôi bị lâm trọng bệnh, nên chưa thực hiện được. Do yêu
cầu của một số môn sinh, đề nghị tôi viết tiếp một vài bài nữa sau bài
"Khái Lược Về Khí Công" đăng trong tập san Việt Võ Đạo - Trở Về
Nguồn xuất bản năm 1993. Mặc dù đang tiếp tục điều trị bệnh tại Pháp (đợt 3),
tôi cũng cố gắng đáp ứng lời yêu cầu của các bạn.
1. Môi Trường Tập:
Môi trường tập rất quan trọng, để tránh những tác động của khung cảnh từ bên ngoài có thể tác động không tốt vào cơ thể.
Không
gian: Yên
tĩnh - Sạch sẽ - Thoáng mát (đừng để bị ngoại cảnh quấy rầy, nhất là những
thứ ảnh hưởng tới Ngũ Quan và cần nơi an toàn...) Không nên ngồi tập chỗ
có gió lùa. Khi trời giông bão, sấm sét, mưa to, điện trường xung quanh biến
động quá nhanh. Nên ngồi tập trên một tấm chiếu hay một tấm mền mỏng.
Thời
gian: Người
xưa chia thời gian theo giờ sinh thái rất phức tạp, ngày nay ít ai theo được.
Tốt nhất là nên tập vào lúc bình minh, hoặc vào những giờ rảnh rỗi, không bị
công việc chi phối là được.
2. Chuẩn bị tư tưởng:
Trước khi tập thở Nội Công, điều quan trọng trước hết là phải chuẩn bị Ý Niệm và Tư Tưởng: hãy buông bỏ tất cả... không còn hình ảnh nào vương vấn trong tâm ta nữa, không lo lắng, ưu tư, yêu ghét gì nữa... cuộc đời dù có ghê gớm đến đâu, ta cũng nên "vứt bỏ ra ngoài trong chốt lát, để Tâm được thực sự an bình, thư thái (điều Tâm).
3. Tư thế mẫu:
Hướng ngồi nên theo hướng Nam Bắc (quay mặt về hướng Bắc cho hợp với Địa từ, nhưng cũng không cần quan trọng hóa). Ngồi kiết già hay bán già đều được cả, miễn sao thấy thoải mái. Áp dụng các nguyên tắc sau:
Lưng
thẳng, vai mềm, bụng lỏng ra,
Gát phăng ý nghĩ khỏi đầu ta, Điều hơi, vận khí theo phương pháp, Óc cố, tâm yên, tiến rất xa.
(Óc
cố có nghĩa là đầu óc chỉ tập trung cố định vào một điểm như hơi thở chẳng
hạn).
Nếu
Tâm vẫn chưa thực sự yên tĩnh, ta nhẩm đọc bài Kệ sau đây:
Chẳng
mừng giận, cũng không yêu ghét,
Chẳng thương xót, cũng không lo buồn, Đã không ham muốn, có chi sợ hãi, Để lòng thanh thản, an nhiên tự tại.
4. Luyện Công:
Khi Tâm hồn đã thực sự đi vào yên tĩnh và thoải mái, ta bắt đầu luyện Công theo phương pháp 3 thời hoặc 4 thời, nhưng theo các nguyên tắc sau đây: 3-6-3.
Ta
dồn tất cả các khí "Âm Dương" của trời đất ấy, tích tụ vào Đan
Điền, nén thành một trái cầu ngũ sắc, to như một quả cam. Ta vận hành cho trái
cầu này quay tròn trong Đan Điền, theo chiều quay của kim đồng hồ và ngược
lại. Trái cầu này sẽ phát ánh sáng, soi sáng Lục Phủ Ngũ Tạng của ta, rồi soi
sáng khắp các Kinh Mạch và cơ thể ta, có thể đó chỉ là do ta tưởng tượng ra
mà cũng có thể là thật. Ánh sáng đó mỗi lúc một sáng, soi toả khắp cơ quan
trong người. Hiện tượng này có thể chỉ là ý niệm, nhưng cũng có thể là sự
thật. Người Tây phương sẽ khó có thể cảm nhận được hiện tượng này.
Trái
cầu ấy chính là Khí Hậu Thiên của Trời Đất, kết hợp với Khí Tiên Thiên vốn đã sẵn có trong cơ thể ta để
tăng cường, phối hợp, làm thành Chân Khí, mà Chân Khí là cái gốc của sự sống,
nó lưu hành, cung ứng cho các Kinh Mạch và Nội Tạng của ta. Trái cầu
"Chân Khí" đó, sau khi cung ứng cho các nội tạng và Kinh Mạch, nó
sẽ mờ dần và nhỏ dần, chỉ còn là một điểm sáng... Nhưng sau đó ta lại tiếp
tục thở, tiếp tục Nạp... trái cầu lại càng lớn và sáng trở lại... và cứ thế
tiếp tục mãi cho đến hết buổi tập. Trung bình, mỗi buổi tập ít nhất cũng phải
kéo dài trong 30 phút, ta sẽ tiếp thụ được thêm Chân Khí.
|
Khí Công Bài Bốn - Luyện
Vòng Tiểu Chu Thiên
|
VS Trần Huy Phong
|
Ghi chú: Vòng
Tiểu Chu Thiên (còn gọi là Vòng Nhâm Đốc Mạch) xưa kia được coi như một
phương pháp Khí Công bí truyền vì Luyện Vòng Tiểu Chu Thiên duy trì sự quân
bình Âm Dương. Khí luôn vận hành theo vòng khép kín, không bao
giờ ngừng, tầm mức tác dụng rất cao vào toàn bộ Kinh Mạch và chức năng của
Phủ Tạng.
Hướng đi của hai mạch Nhâm Đốc:
Theo
luật Âm giáng (đi xuống), Dương thăng (đi lên) thì:
Vì
vậy, trong tập luyện vòng Tiểu Chu Thiên, cũng như luyện các phương pháp Khí
Công khác, lưỡi luôn phải uốn cong, đặt lên nóc hàm ếch, tại vùng huyệt Ngân
Giao, nhằm khép kín vòng Âm Dương, để Khí không bị phân tán.
Nhập Tĩnh: Ngồi
bán già hay kiết già, hoặc ngồi trên ghế, từ huyệt Bách hội (đỉnh đầu) qua
sống lưng, xuống huyệt Hội Âm đều nằm trên một trục thẳng.
I. Luyện Nhâm Mạch và Đốc Mạch riêng (áp dụng phương pháp thở hai
thời)
1. Luyện Nhâm Mạch:
2. Luyện Mạch Đốc:
II. Luyện vòng Nhâm Đốc chung: thông suốt hai mạch mà không
cảm thấy vướng víu, do đó cần tập trung Ý để Khí có thể chạy dễ dàng.
a. Phương pháp thứ nhất: Luyện vòng Tiểu Chu Thiên theo hai hơi thở (mỗi hơi hai thời).
.. Hơi thở thứ nhất:
.. Hơi thở thứ hai:
b. Phương pháp thứ hai: Luyện nguyên vòng Tiểu Chu Thiên bằng
một chu kỳ thở
Cứ
thế tiếp tục không ngừng nghỉ cho đến hết buổi tập. Đến khi kết thúc buổi
tập, lúc thở ra, ta sẽ dẫn Khí xuống thẳng Đan Điền.
c. Phương pháp thứ ba: Luyện hai vòng Tiểu Chu Thiên
bằng một chu kỳ thở:
d. Phương pháp thứ tư:Luyện nhiều vòng Tiểu Chu Thiên bằng
một chu kỳ thở ba thời:
e. Phương pháp thứ năm:Vận Khí chạy ngược vòng Nhâm Đốc
Mạch. Sau khi đã tập thành thục, ta có thể:
1. Vận Khí chạy ngược với đường đi tự nhiên trên vòng Nhâm
Đốc:
2. Vận Khí chạy ngược xuôi, qua lại, tới lui trên suốt vòng
Nhâm Đốc:
Có khi, chỉ cần dùng lưỡi, để lên vòm miệng (hàm ếch), hơi thở tự nhiên bình thường, tự động vòng Nhâm Đốc vận hành chạy liên tục không ngừng nghỉ. Tất nhiên phải đạt tới giai đoạn nhuần nhuyền lắm thì mới có thành tựu như vậy được.
Ghi chú: những huyệt khó vượt qua trên mạch Đốc
Tầm
quan trọng của vòng Nhâm Đốc: luyện vòng Nhâm Đốc là sự giao hòa giữa Tiên Thiên (mạch Đốc vốn là
di sản của cha mẹ), và Hậu Thiên (mạch Nhâm được tiếp thụ từ đời sống bên ngoài).
Luyện
Tiểu Chu Thiên làm thanh khiết và quân bình Âm Dương, tránh được sự rối loạn
chức năng của Phủ Tạng. Luyện vòng Tiểu Chu Thiên là bước đầu tác động vào
Tinh - Khí - Thần, tiến tới bài tập để "Tinh biến thành Khí, Khí biến
thành Thần".
|
Khí Công Bài Năm - Luyện
Tinh - Khí - Thần và Nội Lực
|
VS Trần Huy Phong
|
A. Tinh - Khí - Thần
Tinh, Khí, Thần là tam Bảo của con người, không có chúng thì chúng ta không thể tồn tại được. Tinh - Khí - Thần cũng đều có Tiên Thiên và Hậu Thiên, do đó đều có thể luyện tập để trở nên tăng tiến, sung mãn.
Tinh Tiên Thiên: (còn gọi là Nguyên Khí) là tinh
chất cốt lõi của con người, vốn là do Âm Dương của cha mẹ truyền lại, vì vậy,
Tinh là nguồn mạch của sự sống, nó duy trì tính chất di truyền của gene DNA.
Tinh Hậu Thiên: (còn có tên gọi là Thiên Địa
Khí và Thủy Cốc Khí) có chức năng duy trì và bù đắp cho sự tiêu hao của Tinh Tiên Thiên, do ta hấp thụ từ
trời đất (tiết thực, dinh dưỡng, thu nạp trong những môi trường sống nói
chung).
Phân
biệt như vậy cho có nguồn gốc, thực ra Tinh Tiên Thiên hay Tinh Hậu Thiên cùng giao hòa làm một và ta gọi
chung là Tinh Khí.
Sách
Hoàng Đế Nội Kinh cho rằng Tinh tích tụ tại Thận, điều này cũng không sai vì
Thận nên hiểu là cơ quan bao hàm cả cơ quan sinh dục, trong đó có tinh hoàn
và buồng trứng. Hai Khí giao hòa với nhau, bổ túc cho nhau để tạo thành một
dạng chung gọi là Chân Khí, hàng ngày luân lưu trong các kinh mạch và Lục Phủ
Ngũ Tạng của ta.
Chân Khí lại chia thành:
Thần
là chủ đạo của não. Thần có liên quan mật thiết với Tâm, nên mới nói Tâm tàng
Thần. Đan Điền của Thần đóng ở Ấn Đường và phía sau là Bách Hội (đỉnh đầu).
Nói tóm lại, Tinh là gốc của sự sống, được nuôi dưỡng hàng ngày bởi Khí sinh
sau và chịu ảnh hưởng của Chân Khí và Nguyên Khí. Mục tiêu tối hậu của Khí
Công là luyện Tinh thành Khí - Luyện Khí thành Thần (trong dịp khác, tôi sẽ
trình bày bài tập này).
Tinh
- Khí - Thần xét cho cùng chỉ là một Tinh và Thần chỉ là hai dạng khác nhau
của Khí. Tinh là trạng thái gốc, Thần là trạng thái thăng hoa của Khí. Ba
trạng thái này có liên hệ mật thiết với nhau và có tác động qua lại rất hài
hòa.
B. Nội Lực:
Nội lực là sức mạnh bên trong cơ thể con người, ai cũng có Nội Lực, chỉ nhiều ít khác nhau mà thôi. Nội lực cũng có hai dạng: bẩm sinh và tự tạo. Rất nhiều người, trời sinh ra đã có sẵn một nội lực phi thường và cũng không ít người, khi ra đời chỉ có một sức mạnh yếu kém, nhưng nhờ bền chí luyện tập đúng phương pháp, cũng trở nên những con người có sức mạnh siêu phàm.
Cái
gốc của Nội Lực là Tinh - Khí - Thần, nên muốn luyện Nội Lực thì ta phải đi
từng bước. Trước hết luyện Tinh - Khí - Thần, sau đó phải biết phương pháp
luyện tập để thúc đẩy nội lực lên. Điều quan trọng là phải biết huy động và
tập trung nội lực vào một mục tiêu để "phá vỡ" hay "bẻ
gẫy" những chướng ngại cần thiết, nhất là trong võ thuật.
Nội
lực thường tản mát trong khắp cơ thể ta, nhưng thường thường ta không biết sử
dụng chúng vào những mục tiêu mong muốn. Có rất nhiều câu chuyện thực tế được
kể lại như sau: có nhiều người khi gặp cơn nguy khốn, họ đã vượt thoát được
sự hiểm nghèo như nhẩy qua một hố sâu rộng nhiều mét, vượt qua một bức tường
3 mét, phóng mình lên một cành cây cao khi gặp một con gấu đuổi tấn công, vác
được những vật nặng hàng trăm ký khi nhà đang bị cháy, bị trượt chân trên một
tòa nhà cao 33 tầng, phải túm lấy nhau, đu bám trên một bậc cửa sổ và đã được
thoát chết v.v... nhưng sau đó họ sẽ không thể nào lập lại quá trình đó được
nữa, vì nội lực của họ đã bị phân tán mỏng, không có "yếu tố
kích thích để tập trung vào một điểm hay một vùng" của cơ thể để có thể
thực hiện được những mục tiêu mong muốn, tất nhiên, không phải bất cứ ai cũng
có thể tập trung được nội lực trong lúc hiểm nguy như thế, vì thường thường
lúc đó họ "mất tinh thần, có khuynh hướng buông xuôi !"
Thường
thường những nhà quán quân trong các môn điền kinh hoặc những võ sĩ chuyên
nghiệp, do công phu tập luyện hàng ngày đã quá nhuần nhuyễn, nên họ có khả
năng tập trung nội lực để phát huy hết khả năng vào đôi chân hay đôi tay...
do đó, họ đạt được những thành tích cao. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ
cũng làm được những điều mà họ mong muốn, nhiều khi họ cũng bị "phân
tâm, mất tự tin" khiến thành tích của họ bị sút giảm. Chỉ khi nào chúng
ta tập được tới trình độ "tâm ý tương thông", tập trung được toàn
bộ nội lực vào một điểm, đột khởi xuất chiêu thì lúc đó ta mới có thể cho
rằng "mình đã tự làm chủ được nội lực của mình".
Muốn
phát huy được nội lực cao độ để thực hiện những mục tiêu mong muốn, ta phải
thực hiện được hai yếu tố sau đây:
1. Luyện Tinh - Khí - Thần để nâng cao nội lực.
Muốn luyện nội lực thì trước hết phải luyện Tinh - Khí - Thần, vì đó là cái "thế chân vạc" để nâng cao nội lực. Cũng phải theo đúng quy trình, ngồi bán già hay kiết già, "Khai Công Nhập Tĩnh", thư giãn, an thần, vứt bỏ mọi tạp niệm v.v...
a. Luyện Tinh:
b. Luyện Khí: Luyện Khí ở đây cũng có những điểm như luyện Khí ở
bài số ba, nhưng có điểm khác biệt là tụ Khí để tăng cường trực tiếp cho Nội
Lực.
Chỉ
cần tập đều trong 3 tháng, các bạn có thể hít một luồng khí vào bụng dưới,
trương cơ bụng lên và cho những môn sinh khoẻ mạnh tha hồ đấm cực mạnh vào bụng
mà chẳng sao cả.
c. Luyện Thần:
d. Luyện Nội Lực: Luyện Tinh - Khí -Thần chính là
những phương pháp luyện Nội Lực cơ bản, vì chính chúng là những chất liệu để
gia tăng nội lực. Nhưng sau đây có ba phương pháp mà nếu tập luyện đúng cách
thì Nội Lực sẽ gia tăng nhanh chóng: Đó là tập luyện 3 vòng xoay trên cơ thể.
Phương pháp
Đứng
trung bình tấn, tập trung hết Tâm Ý vào nơi tập luyện. Nạp Khí đầy bụng dưới
- nín thở (Bế Khí).
1. Quay cổ: cắn
chặt hai hàm răng, vận tối đa gân, xương cơ Cổ lên một trương lực thật cao.
Từ từ quay cổ sát theo thân người (đầu lúc nào cũng sát xuống xương vai-
lưng - ngực), quay nhanh dần, nhanh dần, sau đó quay ngược lại... quay
cho đến khi nào hơi thể hết, cần phải thở ra thì ngưng. Thở sâu 3 hơi, để lấy
sức và tiếp tục quay vòng thứ hai. Trung bình nam 7, nữ 9.
2. Quay vai: cắn
chặt hai hàm răng, nắm chặt hai tay, vận hết xương, gân ở hai vai và hai
tay... quay vòng tay theo hai vai từ phía sau ra phía trước, mỗi lúc một
nhanh dần, sau đó quay ngược lại, cũng nhanh dần. Khi hơi thở đã hết thì
ngưng lại. Tạm ngưng, thở sâu ba hơi để lấy lại sức và tiếp tục quay vòng thứ
hai. Trung bình Nam 7, Nữ 9.
3. Xoay Cột Sống (đây là vòng xoay quan trọng nhất và cũng khó
nhất): cắn chặt hai hàm răng, căng cứng phần bụng dưới, hai tay nắm thật
chặt, dang rộng ra hai bên, cúi gục người xuống, xoay quanh vòng bụng, quanh
thắt lưng, từ phải sang trái, thân người phải bẻ gập sang các phía, lúc ngửa
thì lưng song song với mặt đất. Lúc nghiêng thì sườn phải gập hẳn sang một
bên, quay nhanh dần, nhanh dần, sau đó quay ngược lại, cũng nhanh dần. Khi
hơi thở đã hết thì ngưng lại. Tạm ngưng, thở sâu ba hơi để lấy lại sức, tiếp
tục quay vòng thứ hai. Trung bình: Nam 7, Nữ 9.
Đây
là ba vòng quay quan trọng, trong lúc quay phải vận hết Khí lực trong người,
tập trung Tâm Ý cao độ, nên việc luyện tập khá vất vả, nhưng nhờ đó mà Nội
Lực sẽ được phát triển sung mãn, nhanh chóng.
Những
bài tập Khí Công còn nhiều. Ngoài Động Công còn có Tĩnh Công. Trong chương
trình đã được phổ biến (giới hạn) còn có bài Khí Công Quyền, thuộc loại
"động công", vừa ứng dụng để luyện Khí, vừa ứng dụng trong kỹ thuật
chiến đấu. Một chương trình khác là "Nhị Thập Bát Tú," bao gồm 28
tư thế Động Công, luyện tập để dưỡng sinh và tự chữa bệnh cho mình và cho
người khác.
Lưu ý: người
ta nói "Tập Khí Công rất dễ, ai cũng có thể tập được, chỉ không có duyên
với nó mà thôi, nhưng muốn giỏi về Khí Công thì lại rất khó," theo tôi
phần đông không chịu tập đều đặn, hoặc Tâm - Ý bị phân tán vì công việc (cứ
lo ra vớ vẩn), không thể tập trung được, hoặc đời sống hàng ngày buông thả
quá, nào hút thuốc, chơi khuya, ăn uống tự do quá độ v.v... Tuy nhiên nếu
không thể nào theo đúng đươp pháp độ, thì cứ chịu khó tập thở đúng (theo bài
2) thì cùng giúp cho các bạn được rất nhiều trong khoa dưỡng sinh, bảo vệ sức
khỏe, đó là cũng là một trong những mục tiêu của Môn phái ta.
THU CÔNG
Sau khi đã Nhập Tĩnh để tập luyện, sau giai đoạn kết thúc buổi tập, ta phải Thu Công để trở lại trạng thái bình thường. Trước khi Thu Công, phải có ý niệm chuẩn bị Thu Công.
|
Nhu Khí Trong Đời Sống
|
VS. Nguyễn Đình Nam
|
Sinh Hoạt Văn Hóa Và Sinh Hoạt Vật
Chất
Sinh
hoạt văn hóa và sinh hoạt vật chất cấu thành sinh hoạt xã hội. Là sản phẩm
của con người, tất nhiên có ảnh hưởng đến con người. Thông thường
mọi người cho rằng sinh hoạt văn hóa -vật chất được nâng cao, con người sẽ
lành mạnh, đời sống sẽ tốt đẹp. Thực tế giữa các quốc gia văn minh, tiên tiến
với những nước nghèo nàn lạc hậu, đời sống đều diễn ra trong căng thẳng lo âu
như nhau. Bần cùng tuy sinh đạo tặc, nhưng phú gia tri thức vẫn đầy những
tham vọng riêng tư, mưu mô hiểm độc. Đành rằng, sống đầy đủ tiện nghi, được
ăn no mặc đẹp, tri thức con người có điều kiện thuận tiện để được nâng cao;
nhưng không thiếu những nhân tài kiệt xuất, các bậc hiền minh cả Đông lẫn Tây
đều đã trải qua nhiều tháng năm nghèo nàn cơ cực.
Quá
chú trọng đến văn hóa - vật chất để rồi dồn mọi nỗ lực hỉ nhằm đạt đến những
bằng cấp thật cao, kiếm thật nhiều tiền hầu thỏa mãn tham vọng ích kỷ cá
nhân, thế là ta tự đóng khung, tự cô lập. Càng sống cô lập, đóng khung trong
cái Ta, thì càng có va chạm trong quan hệ Ta - Người.
Do
chuyển động nên sinh hoạt văn hóa - vật chất có biến động. Càng tự đóng khung
để quá lệ thuộc vào nó, con người càng hoảng loạn lo âu khi có biến động. Sự
quá lo âu khi thị trường xáo trộn, tâm lý đua đòi theo tiện nghi vật chất; sự
quá sùng thượng vào các ngôi sao nghệ thuật, thần tượng bóng đá; cay cú hơn
thua trong tranh giải thể thao; quá căng thẳng trong thi cử, khó chịu bực
mình khi không vừa ý v.v... đều là những hiện tượng vong thân của một tâm
thức mất thăng bằng. Sự mất thăng bằng nội tâm sẽ làm xáo trộn cuộc sống của
chính ta. Cũng chính thái độ quá quý trọng, quá đề cao văn hóa - vật chất
trong sinh hoạt xã hội là nguyên nhân góp phần tạo ra tệ nạn, bất công. Đấy
là nguyên nhân sâu xa của mọi vấn nạn trên thế giới.
Giá Trị Của Văn Hóa - Vật Chất
Do
con người sử dụng trong sinh hoạt xã hội, giá trị của văn hóa - vật chất được
xác định. Và chỉ được coi là có giá trị khi nó tạo được ảnh hưởng tốt đẹp cho
con người. Con người có làm chủ được mình thì văn hóa - vật chất mới mang lại
an lành cho cuộc sống.
Ngoài
việc lo thoả mãn nhu cầu văn hóa - vật chất, con người còn phải tạo cho mình
tính tự chủ cao, để không bị tha hóa, vong thân bởi chính sản
phẩm của mình; từ đó văn hóa - vật chất được sử dụng đúng vị trí của
nó: phương tiện thể hiện tình người.
Mọi
vị trí trong sinh hoạt xã hội đều có quan hệ mật thiết với nhau. Người sửa xe
không làm công việc của một bác sĩ và ngược lại. Cả hai đều cần cho xã hội và
cần lẫn nhau. Chỉ một kiến trúc sư, một kỹ sư không hoàn thành nổi một công
trình. Mọi công việc nếu làm với tinh thần trách nhiệm, thực hiện đúng nơi
đúng chỗ, đúng khả năng đều có giá trị.
Có
công việc phức tạp, có công việc giản đơn, có công việc thuộc trí óc, có việc
làm tay chân, nhưng đều hỗ trợ cho nhau, đều cần thiết để hình thành khung
cảnh sống. Nếu thiếu cái nhìn trên phạm vi tổng thể, để cho rằng công việc
này, vị trí này có giá trị hơn công việc kia, vị trí nọ, cùng với cái nhìn tự
tôn tự ti sẽ tạo nên sự phân hóa. Từ đó, con người sẽ sống, hành xử theo
những tham vọng mù quáng. Sự quá cách biệt, phân chia bao giờ cũng gây xáo
trộn trong sinh hoạt xã hội. Tất nhiên mọi vị trí đều có sự khác biệt với giá
trị và tầm quan trọng riêng. Có người tốt kẻ xấu, có người tinh tế kẻ thô
vụng và nên có cái nhìn bình đẳng để tránh quá khích trong quan hệ đối xử.
Cách Mạng Tâm Thân
Cảnh
sống giàu sang, địa vị cao trọng chưa hẳn đã tạo an vui cho con người nếu nội
tâm luôn căng thẳng lo âu vì sự thành bại của công việc vì phải mưu tính thủ
đoạn để đối phó lẫn nhau, vì không hóa giải nổi những mâu thuẫn phát sinh
trong quan hệ đối xử. Cảnh nghèo khó lại càng bi thảm hơn: vừa khổ vì thiếu,
vì tự ti lại vừa căng thẳng bấn loại vì lo âu. Do thiếu khả năng
thư giãn thần kinh, điều hòa nhịp tim nên kẻ nghèo người giàu, người học cao
hiểu rộng, kẻ kém trí thức, ai cũng căng thẳng lo âu. Từ đó, con người đã gây
thêm xáo trộn phức tạp cho sinh hoạt xã hội vốn đã thường biến
động.
Thực
tế cho thấy rằng dùng võ thuật để đưa người vào Đạo là việc khó thực hiện nếu
không có phương pháp thích hợp. Võ và Đạo ngược nhau ở tính chất: Võ dẫu
cương hay nhu vẫn ở phạm vi đối đãi với mục đích hơn thắng, chế phục người.
Đạo dù động hay tĩnh luôn thuộc phạm trù bao trùm mọi khuynh hướng đối đãi,
mâu thuẫn. Tính Đạo được thể hiện ở một nội tâm vượt thoát, biểu lộ trong nhu
hòa từ tốn ở người đã thắng phục được cái cảm xúc của chính mình. Võ càng
luyện, khí lực càng mạnh khiến con người khó tự làm chủ trước những xung khắc
mâu thuẫn trong quan hệ Ta - Người. Đạo càng sâu, sự tự chủ, tự chế càng cao,
tạo được hòa khí: Ta - Người là một. Để từ Võ có thể bước vào Đạo, song song
với sự tăng trưởng khí lực, ta phải dày công rèn luyện khả năng tự kiềm chế,
hóa giải sự sung mãn của khí lực. Dùng nhu hóa giải sự căng thẳng của thần
kinh; xả, nạp khí nhẹ nhàng đúng nhịp sẽ điều hòa được nhịp tim. Từ đó mới
hóa giải được những cảm xúc thất tình. Hành động theo cảm xúc bao giờ cũng
quá khích và làm mọi việc trở nên phức tạp. Hóa giải cảm xúc là tạo cho ta
tính tự chủ. Với sự tự chủ, mọi việc trở nên rõ ràng, đơn giản. Nhờ đó ta sẽ
sáng suốt hơn để xét mình, nhìn người; ta sẽ có cái nhìn bình đẳng về mọi giá
trị trong sinh hoạt xã hội để chọn hướng đi, định vị thế cho phù hợp khả
năng, biết sống an vui, hiến ích.
Nhu Khí Trong Đời Sống
Tiếp
nhân đối cảnh, nếu nẩy sinh cảm xúc, cảm xúc này sẽ ăn sâu vào nội tâm tạo
hồi tưởng, để đưa đến ước mơ vọng tưởng. Thấy người đẹp, cảnh đẹp, có cảm
xúc, nhớ lại, ao ước được gặp lại, làm quen. Cảm xúc khi hồi tưởng, ước mơ
càng mạnh, não loạn càng nhiều, nhất là khi không được như ý. Khi được như ý
lại chóng chán, đôi khi sinh ra thất vọng vì trong cảm xúc con người dễ tô
hồng và cũng dễ bôi đen. Tâm khi không bị cảm xúc làm chao động nữa mới có
thể nhập Đạo tính, mới thấy được chân tướng của mọi sự vật. Do vậy, Đạo không
thể tìm cầu bên ngoài. Học hiểu qua sách vở, qua các bậc Đạo sư không giúp ta
thâm nhập Đạo thể nếu sóng lòng chưa thắng. Khi lắng được sóng lòng, Đạo tâm
tự hiển bày: ăn cơm, mặc áo, quét nhà, luyện võ, mọi hành xử ở đời đều mang
tính Đạo.
Muốn
thâm nhập Đạo phải dày công, phải kiên nhẫn, phải có những bước khởi đầu. Sau
những giờ lo toan cho trách nhiệm gia đình xã hội, ngoài giờ tập võ luyện
thân, nên dành một khoảng thời gian nhất định nào đó với phương pháp nhu khí
công để lắng sóng lòng, để loại bỏ tạp niệm cho tâm được trong sáng hầu tìm
về cội rễ tâm linh. Ngoài ra, trong quan hệ đối xử nên tập cái nhìn bình đẳng
trước mọi mâu thuẫn tốt xấu, Ta - Người đều có thể ung dung tự tại, nhu hòa
từ tốn với ngoại cảnh, với tha nhân.
|
Sức Khỏe - Đời Sống - Võ
Thuật
|
VS. Nguyễn Tiến Hóa
|
Người
viết bài này, nếu không nhờ có công và khí thì giờ này đã đang là người điên
trong các bệnh viện, hay là kẻ mất trí ngoài xã hội... Một người đàn ông duy
nhất sống sót trong chuyến tàu 75 người vượt biển vào cuối năm 1981.
Từ
ngàn xưa, khi mà xã hội loài người chưa có một nền văn minh khoa học như hiện
nay. Đời sống xã hội thường ngày, không có luật pháp che chở, nên
yếu tố Khỏe, Có Kỹ Thuật, Gan Dạ là ba điểm ăn trùm thiên hạ. Và ba yếu tố đó
được bao gồm trong võ thuật. Vậy võ thuật là gì? Võ thuật là kỹ thuật tấn
công, tránh né có tính toán trước, hay theo phản xạ tự nhiên do sự tập luyện
lâu ngày mà có. Võ thuật gồm có đấm đá, quăng quật, chém xỉa... côn, kiếm,
đao, quyền v.v...
Cái
thuở xa xưa, lúc đó xã hội loài người còn sống theo định luật: "Mạnh
được yếu thua" thì sức khỏe và có võ thuật là những yếu tố để tranh
quyền, đoạt vị. Người nghèo tập luyện võ thuật để được khỏe, và có khả năng
tự vệ khi bị ức hiếp. Người giàu tập luyện võ thuật để bảo vệ của cải, và
dùng võ thuật lấn đất, lấn quyền hầu được giàu hơn... Vì thế không ai bảo ai,
không có chính quyền nào cổ võ, không có phim ảnh, sách báo quảng cáo rầm rộ,
hay khuyên dạy người ta tập võ; nhưng võ thuật là nhu cầu bức thiết trong đời
sống nên người ta đã tự động luyện tập võ thuật như một khí giới cho sự sống
còn. Thế nên, võ thuật trong thời điểm này đã được tập luyện, có thể nói hầu
như tuyệt đỉnh... Đọc qua lịch sử từ Âu sang Á, ta thấy các đế quốc ngày xưa
đã dùng võ thuật và chiến thuật để thôn tính các quốc gia khác, thâu gồm
thành quốc gia của mình, và đã gọi cái việc đi chiếm đoạt thiên hạ bằng một
danh từ mỹ miều, tốt đẹp là đi mở mang bờ cõi...
Võ
thuật tự nó không xấu, không tốt. Tốt xấu là do cách con người xử dụng nó.
Tập luyện võ thuật, để có một sức khỏe dẻo dai, có một thân hình cân đối để
đẩy lui những bệnh tật thông thường. Tập võ để có một kỹ thuật tấn công hay
tự vệ khi cần thiết. Tập võ để bênh vực kẻ cô độc, yếu thế. Tập võ để có khả
năng hành hiệp giang hồ, cứu khốn phò nguy. Tập võ để tạo cho mình một kỷ
cương trong đời sống, trui rèn nhân cách, làm ngọn đuốc cho những người chung
quanh cùng soi chung. Như thế, ta đã đưa võ thuật lên vị thế võ đạo. Võ Đạo
là một phần trong văn hóa dân tộc; mà văn hóa dân tộc thì cần thiết cho cuộc
sống như khí trời, như dưỡng chất: cơm ăn, nước uống. Vậy Võ Đạo cũng là một
trong những triết lý giáo dục Nhân Bản hiện nay.
Ngày
nay, nền văn minh khoa học đã đưa con người từ chỗ nhìn xa nhất là một cây số
thành một vạn cây số. Khoa học đã chế biến được những võ khí có thể giết cả
chục ngàn người trong giây phút. Vì thế, người ta đã nghĩ rằng: võ thuật
không còn cần thiết cho đời sống như những thế kỷ trước nữa. Ngày nay, một
người yếu đuối nhất cũng có thể hạ một tên khổng lồ bằng cây 38 ly... và gia
dĩ còn có một vài võ sư chưa tập luyện tới cao độ đã vội cho rằng: võ thuật
ngày nay chỉ còn là công cụ cho các tay tư bản dùng vào thương mại...!!!
Trở
lại với lý luận ở trên, ta thấy võ thuật tự nó không xấu, tốt. Và võ thuật
không phải chỉ đơn thuần là những kỷ thuật tấn công uy hiếp người khác, hay
tự vệ mà thôi. Võ thuật đã được triết lý hóa thành võ đạo như những ngành học
thuật khác; nó trở thành một thứ nghệ thuật như: trà đạo, kiếm đạo, tửu đạo,
hoa đạo v.v... mà võ đạo là một trong các nét văn hóa của dân
tộc. Vậy thì dù trong bất cứ không gian, thời gian nào cũng đều cần cho đời
sống con người.
Có
người cho rằng: võ thuật chẳng có liên quan gì tới sức khỏe. Muốn có sức khỏe
chỉ cần đi tập thể dục, đâu cần phải tập võ thuật!?... Kể ra thì cũng đúng
thôi... Nhưng họ có biết đâu rằng: khi tập võ thuật, thì cũng là tập thể dục.
Người tập thể dục dù có sức khỏe thật, song ngày nay cho dù có các loại vũ
khí, nhưng mấy người được mang vũ khí? Thế thì những lúc bất bình giữa đường
họ lấy gì chống đỡ? Ta chưa nói đến cái xã hội văn minh hiện nay, con người
sống quay cuồng trong vật chất, trong ích kỷ bon chen. Mặc dù có luật pháp
che chở; nhưng những kẻ cuồng tín, những kẻ đang say với men thuốc phiện, họ
còn biết sợ luật pháp không? Và khi bị các phần tử này tấn công, ta sẽ kêu
cứu với ai? Ta có bao giờ tự hỏi: xứ Mỹ này có một hệ thống luật pháp quy mô
là thế. Vậy mà nhà nào cũng phải thủ một vài cây súng trong nhà? Vì họ đã
nghĩ: "đền được mạ thì má đã xưng". Và tốt hơn là: "Tiên thủ
vi cường". Và một điều khác, ta cứ bỏ qua chuyện bị tấn công bất thình
lình, mà ta chỉ biết một điều: người tập võ, khi bất ngờ té nhào, họ đã tự
nhào lộn trong phản ứng tự nhiên, còn người tập thể dục không thể có được
phản ứng này và sẽ bị gẫy tay, gẫy chân, gẫy cổ. Thế thì việc nào tốt hơn? Võ
thuật hay thể dục...?
Vậy
thì võ thuật trong thời đại này vẫn còn thiết thực và hữu dụng. Hơn nữa,
người tập võ thuật có căn cơ, tập võ thuật đến cao độ thì không phải chỉ biết
đánh côn, đánh quyền, múa kiếm. Mà phải biết luyện công, luyện khí. Chính
việc luyện công, luyện khí sẽ đẩy lui được các bệnh hiểm nghèo như: ung thư,
đau tim, phổi... Người luyện công, luyện khí thường ngày thì các bệnh cao
máu, cholesterol, tiểu đường không thể phát tác được... Ngoài ra, việc luyện
công, luyện khí, còn giúp con người thoát ra được những ám muội thường tình:
Hỷ, Nộ, Ái, Ố v.v... (Như trường hợp người viết bài này, nếu không nhờ có
công và khí thì giờ này đã đang là người điên trong các bệnh viện, hay là kẻ
mất trí ngoài xã hội... Một người đàn ông duy nhất sống sót trong chuyến tàu 75
người vượt biển vào cuối năm 1981).
Để
kết thúc phần lập luận nêu trên. Ta hãy quay ngược dòng thời gian trở về thời
Đức Đạt Ma Sư Tổ, tổ sư của môn phái Thiếu Lâm. Đức Đạt Ma Sư Tổ, nguyên là
một Đại Đức Phật Giáo người Ân Độ. Ngài vân du qua Trung Hoa cốt để thuyết
giảng Phật Pháp. Ngài đã chọn ngọn Thiếu Thất trong dãy núi Thiếu Lâm để tu
trì và thâu nhận đệ tử, truyền dạy đạo pháp. Vì ngôi chùa nằm sâu trong rừng
núi, các đệ tử của Ngài trong lúc nhập định thì hay bị sơn lam chướng khí làm
cho bị bệnh tật thường xuyên. Và thời đó không có thuốc thang như ngày nay.
Ngài bèn bắt các đệ tử ngoài việc học Phật pháp, còn tập các môn Công, Khí,
các đệ tử của Ngài không còn bệnh tật như xưa, và việc học Phật pháp còn tăng
tiến hơn trước rất nhiều.
Một
điều khác nữa xảy ra: Vào cái thời xa xưa, việc di chuyển chỉ trông vào đôi
chân và nhanh hơn là cưỡi ngựa... Rồi còn phải băng rừng lội suối v.v... Và
việc đi thuyết giảng Đạo pháp rất là gay go... Trên đường đi thuyết giảng còn
bị cảnh cướp cạn, cảnh tham ô quan lại hống hách hoành hành. Ngoài những điều
do nhân sự tạo nên, dọc đường còn có các loài dã thú tấn công các nhà sư để
ăn thịt. Để cho việc giảng dạy có kết quả tốt, đức Đạt Ma Sư Tổ còn nghiên
cứu và truyền dạy cho các đệ tử của Ngài các kỹ thuật tấn công hay tránh né
tài tình: Đó là võ thuật Thiếu Lâm... Dùng võ thuật để bảo vệ và hoằng dương
Đạo pháp.
Như
thế, Sức Khỏe - Đời Sống - Võ Thuật xem ra như không có liên quan với nhau.
Nhưng thực tế lại rất cần thiết và bổ túc cho nhau. Dù vào thời đại xa xưa,
hay ngay trong cuộc sống hiện tại.
|
Luyện Khí Công Phòng Bệnh -
Chữa Bệnh - Giữ Sức Khỏe
|
Huy Vũ
|
Khí
công là một phương pháp hô hấp dưỡng khí, khơi thông kinh mạch, điều chỉnh
khí huyết trong cơ thể con người để âm dương cân bằng, Tinh-Khí-Thần hợp
nhất, phủ tạng điều hòa, nhờ đó dẫn đến tác dụng phòng chữa bệnh, tăng sức
khỏe, kéo dài tuổi thọ.
Khí
công tuy có nhiều phương pháp nhưng cũng không khác biệt lớn, mỗi phương pháp
đều có cái hay riêng. Khí công là phương pháp luyện tập đã có từ
xưa, nhưng rất cần thiết cho đời sống hiện đại.
Tập
khí công cần thư giãn mọi cơ bắp, não nhập định, điều hòa hô hấp để khơi
thông kinh lạc, Tinh-Khí-Thần hợp nhất, nhờ đó năng lượng hoạt động của
Tâm-Trí-Thể được thanh lọc, nâng cao.
Người
xưa nhận thức đơn giản, coi "Khí" là hiện tượng tự nhiên: Con người
nhờ khí mà sống. "Khí tụ thì hình thành, khí tán thì hình mất. Khí trong
cơ thể có hình thái biểu hiện phong phú và đa dạng.
1. Khí cơ bản là
"Nguyên khí", còn gọi là "Chân khí", tức "Khí Chân
Nguyên", trong đó gồm khí trời đất và khí bẩm sinh từ cha mẹ.
2. Tiếp đến là
"Khí Thủy Cốc", còn gọi là "Địa khí" (bởi ngũ cốc mọc lên
từ đất), là loại khí được chuyển hóa từ các chất dinh dưỡng trong thức ăn.
3. Sau hết là
"Không khí", do phổi hô hấp.
Ba
loại "Khí" này cấu tạo nên một loại vật chất tinh vi, có sức hoạt
động rất mạnh, chúng lưu thông khắp mọi ngõ ngách trong cơ thể. Vật chất tinh
vi, đó là một trong những chất cơ bản để duy trì sự sống của con người. Nó
được thể hiện bằng các hoạt động sinh lý trong những tổ chức khác nhau như
phủ, tạng, Kinh, Lạc... Có bốn hình thức hoạt động Thăng - Giáng - Xuất -
Nhập, và có những tên gọi khác nhau. ví dụ: Khí của phủ, tạng gồm có Tâm khí,
Vị khí, Thận khí... Ngoài ra, còn có khí của kinh, lạc như Vinh (Dinh) khí,
Vệ khí...
Khí
của khí công là tín hiệu của sinh mạng vận chuyển theo hệ thống kinh lạc.
Việc rèn luyện khí mà khí công nói tới là sự điều hòa Tâm, Ý để nguyên khí
nơi con người được phát huy trọn vẹn. Loại nguyên khí hoặc chân khí đó có khả
năng kháng bệnh tật trong cơ thể, và là năng lực giúp con người thích ứng với
môi trường bên ngoài.
Công
phu luyện khí được dùng để chỉ thời gian luyện công, chất lượng luyện công,
đồng thời còn có thể dùng để chỉ phương pháp, trình độ, bản lãnh luyện công.
Người
khởi luyện khí công phải:
1. Tuần tự nhi tiến,
không hấp tấp, nôn nóng mới mong đạt được kết quả chắc chắn vững vàng.
2. Phải thật kiên trì,
nhẫn nại, không đứng núi này trông núi nọ, đang tập phương pháp này chưa
thuần đã chuyển sang tập lối khác.
3. Giữ tâm thân bình
thản, an định, ngưng mọi tạp niệm. Khi khởi luyện, nét mặt hồn nhiên tươi
tắn, nhưng lát sau tự nhiên đi vào im lặng (bởi người luyện công phải giữ cơ
thể luôn ở trong một cái "khung" chính xác, đầu thẳng với cột xương
sống). Tới khi có "Khí cảm" tự khắc sẽ "đứng trong sự an
tĩnh", thậm chí còn có cảm giác "phiêu diêu sảng khoái", quên
cản hiện tại.
4. Trong khi tập, có
nước bọt ứa ra miệng, không được nhổ, phải nuốt vào bụng, vì đó là Tân dịch
do lưỡi chạm vào hàm trên gây nên. Người luyện khí công thường để "lưỡi
dính hàm trên" là vị trí của huyệt "Thiên trì". Khi lưỡi đặt
vào huyệt đó, trong miệng sẽ tiết ra Tân dịch (nước bọt). Tân dịch đó là dịch
tiêu hóa, không những giúp cho việc tiêu hóa tốt, mà còn nuôi dưỡng khí huyết
khi nuốt nước bọt xuống dưới Đan điền. Bởi vậy, khi luyện khí công chớ bao
giờ nhỏ nước bọt đi, phải nuốt vào cho cổ họng khỏi bị khô. Nhổ nước bọt
nhiều sẽ tổn khí.
Cần
lưu ý:
Dưới lưỡi có 4 khiếu: 4 khiếu Thông Tâm khí và 2 khiếu Thông Thận khí, gọi là
"Thiệt Tuyền". Còn các chất khác bài tiết ra khỏi cơ thể như mồ
hôi, nước tiểu đều có mùi hôi và mặn, duy có nước bọt là hơi ngòn ngọt, nuốt
vào bụng sẽ có tác dụng "trợ tỳ, khai vị". Điều đó
chứng tỏ Tân dịch là rất quý.
Khí
công còn có một phương pháp tự điều hòa thân tâm, được nhận thức và sáng tạo
qua đời sống. Trong thực tiễn, khí công phấn đấu chống lại già yếu và bệnh
tật, Khí công có những chức năng sau:
A.
Kiện toàn thân tâm
B.
Giải trí
Nhờ
có khí công, con người sau những lúc làm việc bận rộn có thể nghỉ ngơi một
cách tích cực, thỏa mãn cuộc sống tinh thần, tu dưỡng tâm hồn, bồi dưỡng
những phẩm chất cao thượng, làm trong sạch tình cảm để được sống vô tư, hồn
hậu. Như thế, không những phục hồi được nguyên khí mà còn là một loại hưởng
thụ tinh thần cao cấp, loại hưởng thụ mà người bình thường không thể có được.
Vui
trong niềm vui đó ta dễ thỏa mãn với mọi người, dễ giao lưu chan hòa tình
cảm, khiến con người sống cởi mở, gắn bó với quần thể, tâm trí sáng suốt, tâm
hồn khoáng đạt, luôn vui tươi, dũng cảm tiến lên phía trước với một cảm giác
cực kỳ tốt đẹp. Trạng thái tâm lý đó có thể sinh lòng tự tin và tự hào, xác
lập chính khí, trừ bỏ tà khí và có thể giải tỏa được những căng thẳng thần
kinh, mệt mỏi của trí óc, rối loạn tinh thần do làm việc quá tải và các quan
hệ xã hội phức tạp gây nên. Đến với khí công, người già được bảo dưỡng, sức
khỏe tăng tiến, được sống vui, hưởng trọn một tuổi trời và vẫn phát huy được
năng lực của mình để phục vụ xã hội.
C.
Tình cảm xã hội
Khí
công có liên quan trực tiếp đến sự ổn định tâm lý xã hội của con người. Cái
gọi là "sự cân bằng tâm lý xã hội của con người". Ví dụ: Ai cũng
ham sống, nhưng cũng có người vì quá đau khổ mà muốn quyên sinh. Mọi người
đều có tình yêu đối với tổ quốc, nhưng trong hoàn cảnh hỗn loạn, chết chóc
khiến người chán nản, tỏ ra thờ ơ, lãnh đạm. Có người tuyệt vọng vì bệnh chữa
chạy khắp nơi không có kết quả. Có người vi nguyên nhân này nọ sinh ra mất
chỗ dựa về tinh thần... Khí công có thể xua tan những đám mây u tối đó trong
tâm hồn họ, khiến họ phấn chấn trở lại. Khí công trở thành ngọn đuốc, giơ
cao, hiệu triệu mọi người chiến đấu với già, yếu, bệnh.
Tình
cảm ý chí của con người biểu hiện qua thất tình: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, cụ
không chỉ là sự phản ánh chủ quan của con người với những kích thích của ngoại
cảnh, mà còn là những yếu tố quyết định sự sinh tử, tồn vong của con người.
Các chuyên gia y học cho rằng: khi nẩy sinh bất cứ một biến đổi nào về tình
cảm thì "bộ tư lệnh tối cao" của cơ thể con người là đại não đều cơ
động "điều binh khiển tướng", tiếp đó dẫn đến một loại những biến
đổi phức tạp về nhịp tim, nhiệt độ... Cho dù trên gương mặt chỉ "hơi gợn
sóng", nhưng thế giới nội tâm đã như "bão táp". Ngay khi chỉ
cần nhăn mặt, cau có thì bên trong cơ thể đã có những tổn thương nghiêm
trọng. Bởi bất cứ một việc gì gây ra sự phản ứng đều gây tổn thất chứ không
phải là tăng cường cho hệ thống miễn dịch.
Khi
vui thì khí hòa hoãn, nhưng quá vui cũng có thể đưa đến cái chết đột ngột. Có
thể nói "tình cảm là chiếc gậy chỉ huy cuộc sống". Điều khiển được
sự phiền nhiều của thất tình là điều hết sức quan trọng đối với những người
luyện khí công. Sách thuốc có viết:
Thất
tình thái quá sẽ tổn thương Thân và Tâm, phát sinh bệnh tật. Cách đề phòng là
tăng cường sự tu dưỡng tư tưởng, loại bỏ những suy tư tạp niệm, "vô
ngã", không chỉ biết có mình, không quá ư thiết tha, mong mỏi một cái gì
ngoài tầm tay mình, cứ sống theo quy luật tự nhiên, vui với những gì đang có
quanh mình thì tâm hồn sẽ thanh thản, ung dung, tự tại. Tóm lại, bách bệnh
đều do khí sinh ra. Bằng việc điều lý khí công một cách thích đáng sẽ chữa
trị được mọi bệnh tật và thân, tâm sẽ luôn mạnh khỏe, thư thái.
Về
mặt sinh hoạt, người luyện khí công phải biết cách sắp xếp cho tốt. Ăn uống
phải điều độ, không ăn quá no, cũng không để quá đói mới ăn, thức ăn đừng để
quá nguội lạnh, ăn ít những vị cay, nồng, đắng hay quá mặn. Ngủ nghỉ và làm
việc có giờ giấc, không nghiện rượu, thuốc lá, mọi sinh hoạt đều chừng mực,
tiết độ.
Thường
ngày phải có ý thức sửa đổi, chỉnh đốn tư thế đứng, ngồi, nằm, và dáng đi cho
chững chạc. Phải đứng như cây tùng, ngồi như chuông đồng, nằm như cái cung,
đi như gió lướt.
Ý và Khí
Trong
thân người, ý và khí vô hình, vô sắc, mắt không thể thấy được. Cần biết: khí
chiếm một địa vị cực kỳ quan trọng, khí vận hành khắp cơ thể, có công dụng
vừa thúc đẩy huyết vừa dưỡng huyết. Khí do chân hỏa ở mệnh môn chưng cất tinh
dinh rồi nuôi lớn lên mà thành. Sự hình thành đó gọi là "Thủy hỏa ký
tế". Khí được nuôi dưỡng và rèn luyện mà phát huy tiềm lực,
gọi là "Nội đan", mà chỗ cất giữ là "Đan điền". Khí có
giá trị cao hơn huyết. Khí huyết thường đi chung, nhưng khí là chủ, huyết là
phụ, khí là vệ, huyết là doanh. Sự sống của con người hoàn toàn do doanh vệ,
nếu có daonh, không vệ ắt không vận hóa được. Nói cách khác, vệ là trọng,
doanh là khinh. Huyết thiếu còn có thể tạm sống được, chứ khí không đủ thì
nguy cho tính mạng. Cho nên, việc dưỡng khí là rất trọng yếu.
Cần
hiểu rõ: Tâm chỉ là chủ của Ý, Ý là dụng của Tâm, Tâm động thì Ý khởi, Ý sinh
thì Khí tùy (theo). Nói cách khác Tâm - Ý - Khí có mối quan hệ
gắn bó tương liên tuần hoàn. Tâm loạn thì Ý tán, Ý tán thì Khí phù. Ngược
lại, Khí trầm thì Ý tụ, Ý tụ thì Tâm định. Cho nên ba thứ đó vận dụng hỗ
tương không thể tách rời.
Có
hai cách xoay chuyển nội khí trong cơ thể con người. Ý đến nơi nào thì Khí
theo đến đó, bất luận chỗ nào cũng có thể vận hành tới được. Các động tác
khai hợp, hô hấp, tiến lui trong Nhu khí công nhằm mục đích luyện tập vận khí
ra toàn thân, khiến có thể từ chỗ thể giác, cảm giác, xúc giác mà tiến đến
chỗ mẫn tiệp linh lợi như thần. Trong thân người có ba trạng thái khí:
1. Khí ngốc trệ (ngưng
đọng)
2. Khí phù táo hay bạo
khí do cơn giận phát ra, có thể làm chân bị phù, trọng tâm không vững nên vô
lực.
3. Khí thanh bình tụ ở
đan điền; hễ khí bình ắt hòa, hòa ắt đạt, đạt ắt thông hành không trở ngại.
Cho nên, phải luyện tập để cơ khí thanh bình và tiêu trừ khí trệ, bạo.
Kình và Lực
Lúc
chưa thực tập đối kháng trong giao đấu, ta chưa phân biệt rõ ràng Kình và
Lực. Lực xuất từ xương bị giữ lại ở lưng và vai, nên không phát ra hết được.
Kình xuất từ gân đi tới tay chân để phát ra. Lực hữu hình, còn Kình vô hình.
Lực vuông mà Kình tròn. Lực trệ rít mà Kình thông suốt. Lực tán ra, Kình tụ
lại. Lực trôi nổi, Kình trầm lắng. Lực cùn nhưng Kình bén.
Khi
phát Kình tấn công, cần chú ý ba điểm:
1. Cơ thế, tức ta
thuận thế, còn địch nghịch thế. Trọng tâm của địch thiên về một bên, thân địch
không linh hoạt, khí của địch thượng thăng không trầm xuống được.
2. Địch đang ở phương
hướng nghịch thế, ta nhằm vào đó mà phát Kình.
3. Phải đúng thời
điểm, tức là nhằm vào lúc mà kình của địch vừa dứt, chưa kịp sinh kình mới
hoặc địch lui về sau. Ta phải phát kình địch đúng lúc, không sớm không trễ,
vì sớm ắt kình của địch chưa dứt có thể kháng cự lại, trễ ắt địch phát giác
mà biến chế được. Ba điểm này không thể thiếu một, ngoài ra còn phải chú ý
đến cự ly giữa ta và địch: quá xa kình không tới, quá gần ắt kình bị trở
ngại. Kình lực và nội khí như ngày và đêm, ngày đến thì đêm lui.
Có
hai cách vận dụng nội khí phát kình:
1. Từ phía trước ra
phía sau. Khí trầm ở Đan điền, từ đó bức xuất mà quá ra tứ chi. Ngày hiện thì
đêm ẩn.
2. Từ phía sau đi ra
phía trước. Khí thấm vào sống lưng và tay, từ đó xuất ra mà quán vào tứ chi.
Xuất
kình như ném một đồ vật, muốn ném là ném. Nhất thiết không ngập ngừng hay do
dự, nếu có chút chi phân vân thì không sao phát được. Phải phát kình như
phónt mũi tên, vút buông dây, không còn chi trong tay cả. Cho nên khi phát
kình đánh địch cần phải liễm khí, ngưng thần, mắt nhìn thẳng đối phương, nhất
thiết không nhìn xuống, dù trường hợp muốn đề phòng địch tấn công hạ thể, vì
nhìn xuống là kình đi xuống.
Kinh Lạc
Trong
cơ thể con người có 12 đường lộ tuyến và đó là những đường liên hệ ngũ tạng,
lục phủ, thân mình, tứ chi của con người, đó là đường khí vận
hành, và cũng là đường sinh lý cảm ứng trong cơ thể con người gọi chung là 12
kinh.
Thập
nhị kinh lạc, tức là 12 kinh, thêm vào mạch Nhâm và mạch Đốc. Hai kinh Nhâm
và Đốc ấy, một đường đi phía sau lưng ngay chính giữa cơ thể, còn một đường
thì đi ngay chính giữa phía trước.
Kinh
lạc có liên quan mật thiết với phủ tạng "Máu sinh khí, khí điều hành
máu". Do đó, thông qua sự ban, ấn, chỉ đúng quy luật sẽ làm cho phụ tạng
đầy đủ khí huyết, làm cho các cơ quan bị nhiễm bệnh có thể lui bệnh và hồi
phục, âm dương cân bằng. Với tứ chi, kinh lạc như cái ổ khóa, ngón tay và
ngón chân như cái chìa. Cho nên mối tương quan giữa chúng như khóa với chìa
vậy. Tay chân có thể điều khiển nội khí thăng giáng, xuất nhập, đạo dẫn thoải
mái để chữa bệnh và nâng thể lực. Ngoài ra, người luyện khí thành công có thể
tích lũy nội kình, nâng cao công lực "phát phóng ngoại khí" chữa
bệnh. Khí vận dụng "nội khí phóng ngoại" để hướng dẫn chữa bệnh cho
người khác.
Mối
quan hệ giữa các ngón tay với kinh lạc:
Cơ
thể con người tuy chia thành các phủ, tạng, cửu khiếu, tứ chi... song chúng lại
là từng bộ phận của một chỉnh thể, đồng thời một bộ phận lại là một chỉnh thể
nhỏ. Tai không chỉ là cơ quan thính giác đơn lẻ mà còn liên quan mật thiết
với các phủ, tạng, kinh lạc. Khí huyết của 12 kinh mạch, 365 lạc thăng lên
mặt rồi đi tới các thông khiếu, dương khí của chúng lên đến mặt tạo nên chức
năng Nhìn, biệt khí của chúng tích lại ở tai tạo nên chức năng Nghe. Thận đi
vào tai, phế khí hư thì thiếu khí... sẽ làm tai điếc. Đó là mối quan hệ giữa
tai với kinh lạc và phủ tạng.
Về
kinh lạc, thì không thể mổ tử thi con người mà tìm thấy. Nó không trùng với
thần kinh hay huyết quản để có thể giải phẫu mà thấy được, nhưng
nó tồn tại, đó là một điều không thể nghi ngờ. Một người bị bệnh bao tử, châm
huyệt Túc Tam Lý nằm phía dưới đầu gối, bên ngoài ống quyển thì người bệnh sẽ
lành, nhưng nếu xét theo giải phẫu học thì không tìm thấy một sự liên hệ nào
bằng đường thần kinh hay huyết quản giữa huyệt Túc tam lý với Bao tử. Một
bệnh nhân khó thở, nếu châm cứu ở xương quay nằm phía ngoài bàn tay thì thấy
dễ thở ngay, xét phương diện giải phẫu thì ở đầu xương quay có nhánh của thần
kinh quay, nhưng dây thần kinh ấy không có quan hệ gì đến phổi và khí quản
cả.
Kinh
lạc là những bí mật trong thân thể con người, các bậc Đông y xưa, trải qua
một thời gian dài trị liệu mới tìm ra được. Mặc dù ngày nay khoa giải phẫu
chưa tìm được thực chất của kinh lạc, nhưng trên lộ tuyến của những kinh lạc
ấy lại phát hiện những cảm ứng có liên thuộc quan hệ với các quan trong nội
tạng. Thế nên trên phương diện y học, kích thích những chỗ trên lộ tuyến ấy
là trị lành được những bệnh trong nội tạng.
|
Nhu Khí Công Quyền Việt Võ
Đạo
|
Huy Vũ
|
Nền
tảng khí công của Vovinam là Nhu Khí Công Quyền. Bởi quyền tượng hình, hình
gợi ý, ý dẫn khí. Khi đi quyền cần phải biết tụ khí và vận khí ở các bộ phận
cần thiết trong cơ thể mới mang lại kết quả mong muốn, nếu không chỉ là múa
cái hình bề ngoài mà thôi.
Phổ
thông việc hướng dẫn đi Nhu Khí Công Quyền phân ra hai phần: bên trong là hô
hấp (thở ra, hít vào), bên ngoài là quyền thức. Khi đi quyền, xuất thủ thì hô
(thở ra), thu tay thì hấp (hít vào); thăng thì hấp, giáng thì hô; khai thì
hấp, hợp thì hô; đồng bộ chuyển thân và lúc đi những thức quá độ thì hít thở
ngắn chứ không hô hấp dài; giữa hô và hấp còn hàm cái lượng hơi đình chỉ hơi
thở (tức ngưng thở). Khi đẩy, ấn tay ra thì hô, lúc thu tay vào thì hấp.
Tập
Nhu Khí Công Quyền, gân cốt phải mềm mại, các khớp phải linh hoạt chuyển động
tay chân, di thân chuyển hướng như nước chảy không thôi, bản lề
không mọt. Công pháp này nhằm rèn luyện các khớp xương trong toàn thân hoạt
động, làm cho các cơ quan nội tạng cũng hoạt động theo, từng bước nâng cao
tính hưng phấn của hệ thần kinh, tạo tính linh hoạt, nhịp nhàng của các khớp
xương cốt và dây chằng. Đi Nhu Khí Công Quyền, tiết tấu trầm nhẹ, mạch lạc,
tư thế phóng khoáng, thi triển khoảng khoát, đường bệ. Khi luyện động tác
nhịp nhàng, phối hợp với hơi thở một cách khoan thai, không cứng nhắc, không
uể oải mà phải linh hoạt tự nhiên với hai mắt nhìn thẳng long lanh có thần,
khắp châu thân tràn trề sức sống.
Tà
khí nhập vào tim phổi thường lưu giữ ở hai nách. Tà khí nhập gan tích tụ ở
mạng sườn. Do đó, khi tập cần vươn tay, mở nách, chuyển động khu trừ tà khí ở
Tim, Phổi, Gan làm tăng thêm lượng chứa hơi trong phổi, tăng sức dẻo dai cơ
ngực, cơ đầu cổ và cơ bụng rèn luyện các khớp ở vai, khuỷu tay, sườn, đồng
thời bổ tâm ích tỳ vị, khiến huyết lưu thông tốt, thúc đẩy sự bài tiết và hấp
thụ tốt, tránh bệnh tật, hỗ trở và trị liệu chứng viêm phế quản, mãn tính...
Y
học Đông Phương nhận định: Thận là cái gốc của hậu thiên, lưng là cái nơi chứa quả thận. Cho
nên, bất cứ loại quyền thuật hay thể thao nào, cho chí lao động
sản xuất, nếu lưng yếu làm việc sẽ yếu kém. Tuy nhiên, phải căn cứ vào tình
hình thể chất của mình mà "Tập tùy sức, vừa phải, tuần tự, tiệm tiếm để
giữ sức không bị tổn hại". Sự sống tồn tại nhờ ở vận động, ít hoạt động
sẽ giảm bớt quá trình sống. Người khỏe mạnh nhờ thường xuyên vận động, luyện
tập; người yếu, mắc bệnh mãn tính càng cần thiết hoạt động, luyện tập hơn.
Vấn đề là nên hoạt động, luyện tập như thế nào? Phải dựa vào tình hình cụ thể
của bản thân từng người mà lựa chọn phương pháp khí công thích hợp, luyện tập
đúng mức, vừa sức sẽ có hiệu quả tốt, tăng cường sức khỏe. Khi người yếu mắc
bệnh mãn tính mà quá chú trọng nghỉ ngơi, không dám rèn luyện khí công sẽ
khiến tinh thần ủy mị, thiếu lòng tin về khả năng chiến thắng bệnh tật, bị
suy sụp tức khắc.
Rèn
luyện khí công có tác dụng tốt để chữa trị về nhiều mặt trong cơ thể đặc biệt
là đối với hệ thần kinh trung ương. Thần kinh trung ương là bộ tư lệnh của
toàn thân, các tế bào thần kinh trung ương có quan hệ mật thiết với các cơ
quan nội tạng và cơ bắp trong toàn thân. Chữa trị bằng khí công, người bệnh
cần làm những hoạt động thích hợp để khiến cho cơ bắp co giãn và thả lỏng, sẽ
điều hòa các quá trình hưng phấn và ức chế để điều tiết sự hoạt động của các
cơ quan nội tạng toàn thân để có khả năng đề kháng, tiêu trừ bệnh tật.
1. Xây dựng lòng tự
tin và tư tưởng lạc quan yêu đời.
2. Kiên trì và thường
nhật luyện tập một cách có hệt thống (không tập bữa đực bữa cái).
3. Tuần tự và tiệm
tiến theo đà thuyên giảm của bệnh tật. Khi bệnh đã lui cần nâng cao lượng
hoạt động và luyện tập để tăng cường sức khỏe.
4. Rèn luyện toàn
diện. Mọi cơ bắp, gân cốt đều được vận động, cả trong và ngoài cơ thể cho khí
huyết lưu thông, mới đẩy lui được bệt tật.
Đốt
sống cổ, sống lưng là những bộ phận sung yếu trong cơ thể, thường xuyên luyện
tập động tác xoay lưng, cơ thể khai thông các mạch Đốc, Nhâm, Đới làm linh
hoạt cột sống, tăng cường thăng bằng.
Động
tác dang rộng cánh tay, mở rộng lồng ngực có thể làm cho cơ tay chân thả
lỏng, huyết áp hạ thấp; hít hơi thật sâu rồi thở ra thật hết, nhờ đó tăng
lượng hơi ở phổi, tăng cường cơ ngực, cơ bả vai, cơ hai đầu cánh tay dưới,
cánh tay trên và cơ bụng. Đồng thời còn giảm bớt mỡ dưới da... Eo lưng là chỗ
ở của thận. Thận làm chủ lưng, đùi. Tập uốn và xoay eo lưng làm cho eo và đùi
vững chắc, khiến gan, thận khỏe mạnh. Động công tiến hành rèn luyện trên cơ
sở tĩnh công, chú trọng lấy thế chuyển khí, nhờ đó đạt được "Khí huyết
cùng luyện, kình khí cùng luyện, nội ngoại cùng luyện", khiến khí lực
tăng gấp đôi, thúc đẩy khí huyết toàn thân điều hòa, kinh lạc thơi thông, chủ
yếu luyện tích lũy và giải phóng năng lượng, tăng cường công năng "ngoại
khí nội thu, nội khí phóng ngoại" của đôi tay thao tác, đôi chân di
động.
"Nội
kình" trong khí công là năng lượng hoạt động trong cơ thể, là cơ sở vật
chất của hoạt động sinh mạng, là tiềm lực ẩn náu trong cơ thể con người.
Trong quá trình luyện công nhất thiết phải có sự huấn luyện đặc
biệt và có tính mấu chốt, đó là sự rèn luyện ban động và án động của 10 ngón
tay và 10 ngón chân. Chính chúng là nơi khởi đầu và là chỗ kết thúc của 12
kinh trong cơ thể, sự ban động (các hoạt động của các ngón tay như nắm,
gẩy... là ban động) và án động (các ngón chân bấm, ấn... là án động) không
những có thể tích lũy và điều tiết giải phóng nội kình mà còn là phương pháp
hỗ trợ, khiến việc luyện công đạt được kết quả gấp đôi trong cùng một thời
gian.
Ban
chỉ pháp kiên trì luyện tập sẽ có cảm giác có một dòng hơi ấm từ Mạch Đốc ở
sau lưng vận chuyển lên rồi từ Mạch Nhâm vận chuyển xuống ở phía trước, chu
chuyển tuần hoàn làm cho Mạch Nhâm, Mạch Đốc lưu thông. Mạch Nhâm là biển của
Âm Mạch. Mạch Đốc là nơi tụ hội chung của Dương Mạch. Một khi khơi thông hai
mạch đó thì Bát Mạch Kinh Kỳ trong cơ thể đều thông; qua đó cho thấy sự quan
trọng của hai mạch Nhâm, Đốc.
Sự
ban động ngón tay và án động ngón chân nhịp nhàng cùng lúc sẽ thúc đẩy sự vận
chuyển khí trong các kinh lạc có liên quan, cho nên ban, án, ngón tay, ngón
chân đúng quy luật thì sẽ có thể điều chỉnh trực tiếp về lưu lượng và vận
tốc, nhờ đó thúc đẩy được sự vận hành của khí huyết, khơi thông kinh lạc,
kích phát và tích trữ nội kình (tiềm năng trong cơ thể). Dẫn đến tác dụng
tăng nhanh tiến trình luyện công đạt hiệu quả gấp đôi.
Tĩnh
công định tâm để tụ khí. Động công để tán phóng khí. Động tĩnh phối hợp,
trong Động có Tĩnh, trong Tĩnh có Động. Tĩnh là cơ sở, Động là thể dụng. Vận
khí bằng đi quyền, tay chân ban, án lúc thăng lúc trầm! Dẫn lực bằng hơi, thu
phóng tự nhiên. Hữu hình vô ảnh, theo khí sinh lực.Vận dụng phát huy thông
suốt kinh lạc. Khí thông bì phu, xuyên thông cốt tủy, xương khớp chơn tru,
gân xương cứng khỏe. Ngón tay co bóp, ngón chân bấm ấn, khí thông toàn kinh,
lục phủ ngũ tạng. Âm dương cân bằng, thuận nhĩ thính vượng, phù
chính trừ tà, đẩy lùi bách bệnh.
Nhu
Khí Công Quyền phối hợp giữa Động công và Tĩnh công, hỗ trợ lẫn nhau, nên
không thủ ý, lấy chuyển động trong thư giãn để dẫn khí khiến người tập cảm
thấy sảng khoái, khoáng hoạt, đi hoài không mệt mỏi.
Chú
trọng về Động công, nhưng khi đi xong những bài Nhu Khí Công Quyền. Vovinam
vẫn cho môn sinh tĩnh tọa để tập Tĩnh công. Tĩnh tọa theo cách ngồi
"kiết già" hay "bán già" hay ngồi thông thường đều được,
nhưng phải ngồi ngay ngắn vững vàng (chính thân đoan tọa), đỉnh đầu như treo
lên (hư linh đỉnh kình), vai trầm ngực ngậm, toàn thân buông lỏng, đầu lưỡi
chạm nhẹ vào giữa vòm miệng trên, môi răng ngậm nhẹ, mắt lim dim hơi khép.
Lưng tay trái đặt vào lòng bàn tay phải, để sát bụng dưới buông lỏng trên hai
đùi, bụng rốn buông nhẹ xuống.
Giềng
mối của Tĩnh công là "Tam điểm nhất tuyến" tức là: Điều Thân - Điều
Tức - Điều Tâm. Tâm Bình, Khí Hòa, Chí Chính, Thể Trực, Tâm phải thanh tịnh,
không vọng tưởng lan man, cũng không để tinh thần căng thẳng. Và phải:
1. Tập trong khung
cảnh vắng lặng yên tĩnh, có cảm giác ở huyệt Ấn Đường.
2. Các khớp xương toàn
thân buông lỏng, mềm mại, nhẹ nhàng, tránh cứng đơ, căng thẳng.
3. Tránh tập lúc quá
đói hoặc quá no; nên tập vào giờ Mão (5-6 giờ sáng) và giờ Dậu (gà lên chuồng
5-6 giờ chiều). Nếu nửa đêm không ngủ được, có thể tập vào giờ Tý (12 giờ
đêm).
Quan
trọng nhất là tâm tư phải thật vắng lặng, không ta không người. Nhất thiết
mọi tư lự không chạy ra ngoai (thu thị phản thính - thu cái nhìn nghe ngược
lại)
1. Tai không nghe để
Tinh quay về Thận.
2. Mắt không nhìn để
Hồn quay về Can.
3. Miệng không nói để
Thần quay về Tâm.
4. Mũi không ngửi để
Phách quay về Phế.
5. Ý không nghĩ để Ý
quay về Tỳ.
Tinh-Hồn-Thần-Phách-Ý
có chỗ quy về Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận thì là "Phục Kỳ Mện" ắt thiện
Tâm nhiên hậu hiện ra.
Tập
khí công đạt mức, thành tựu sẽ khơi thông được ba huyệt "Tam Quan",
tức các huyệt Vĩ Lư, Hiệp Tích, và Ngọc Chẩm.
Cần
Lưu Ý:
Nước bọt có rất nhiều tác dụng. Ở trong miệng, trước hết, nước bọt bôi trơn
lưỡi và miệng nên tiếng nói phát âm dễ dàng. Nếu miệng lưỡi khô, nói sẽ hụt
hơi. Trong nước bọt có chất kháng sinh có thể diệt được vi trùng và làm trung
hòa vi khuẩn hình thành ở men răng sau khi ăn. Ngay sau khi thức ăn vào
miệng, nước bọt đã bắt đầu tác động đến quá trình dễ tiêu hóa cho bao tử, làm
tốt việc phục hồi men răng và giữ vệ sinh cho răng miệng. Do đó, khi tập Tĩnh
công cần phải chạm đầu lưỡi vào giữa miệng trên để nước bọt ứa ra giữ hơi cho
bền.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét